Ξ|Ξ   GIỚI THIỆU ::. TÁC PHẨM & TÁC GIẢ LƯU TỘC VN.
Đăng ngày 1/9/2014
E-mail     Bản in

NŨ VĂN SĨ THỤY AN - LƯU THỊ YẾN (1916 - 1989)
Nhà văn Thụy An tên thật là Lưu Thị Yến (1916 - 1989) Bà là Nhà báo nữ đầu tiên chủ trương các tờ Đàn bà mới, tại Sài gòn, từ 1934, và Đàn bà, Hà Nội, 1937. Bà là Nhà văn nữ tiên phong với tiểu thuyết Một linh hồn (năm 1942).

Nhà văn THỤY AN - LƯU THỊ YẾN
(1916 - 1989)

Tiểu sử: 

Bút danh Thụy An tên thật là Lưu Thị Yến, sinh ngày 24 tháng 8 năm Bính Thìn (21-9-1916), con gái đầu của ông Lưu Tiến Ích và bà Phùng Thị Tôn, người làng Hòa Xá, huyện Ứng Hòa, Hà Đông. Bà từ trần tại Sài Gòn vào ngày 07 tháng 5 năm Kỷ Tỵ (10-6-1989), hưởng thọ 74 tuổi (tuổi ta), Pháp danh: Nguyên Quy. (Theo tộc phả Bùi tộc Châu Cầu, Phủ Lý, Hà Nam.)

Có khiếu thơ văn từ nhỏ nên năm 13 tuổi, bà đã có thơ đăng trên báo Nam Phong (1929) và 3 năm sau, lại nhận được giải thưởng văn chương của triều đình Nhà Nguyễn. Chồng Lưu Thị Yến là Nhà văn, Nhà giáo Bùi Nhung, bút hiệu là Băng Dương (em ruột học giả Bùi Kỷ). Ông Bùi Nhung hai lần làm giám đốc Đài phát thanh Hà Nội từ 1948-1949, và 1951-1952, rồi giám đốc Đài phát thanh Hải Phòng (năm1954). Sau khi bà sinh được 7 người con, một người mất sớm: còn lạị có: Bùi An Dương (1934), Bùi Thụy Băng (Nữ, 1937), và Bùi Thư Linh (Nữ,1938), Bùi Dương Chi (1939), Bùi Ngọc Trinh (Nữ,1943) và Bùi Châu Công (1945). Năm 1949 thì ly thân với chồng, Thụy An - Băng Dương chỉ sống ly thân, nhưng không ly dị vì cả hai đều theo đạo Thiên Chúa giáo. và lý do vì lúc đó, Bùi Nhung liên hệ tình cảm với bà Lưu Thị Trạch, tên thường gọi là Việt.  Bà Trạch (Việt) là em ruột của bà Thụy An, nên Thụy An im lặng rút lui, nhường chồng cho em.

Trong thời kỳ Nhân Văn–Giai Phẩm, nhà văn Phan Khôi nhận Lưu Thị Yến là con nuôi. sau khi báo Nhân Văn và Giai Phẩm bị đình bản, bà bị bắt năm 1958 và trong phiên tòa ngày 21 tháng 1 năm 1960 xét xử bà tại Hà Nội, nhiều nhân chứng đều cho rằng bà đã có ảnh hưởng không nhỏ đối với một số văn nghệ sĩ tham gia phong trào này. Tuy nhiên, những người trong cuộc như Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt phủ nhận sự tham gia của bà trong nhóm.

Năm 1973, Lưu Thị Yến cùng với Nguyễn Hữu Đang, cũng bị tù vì vụ Nhân Văn Giai Phẩm, được thả trong diện "Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris". Vào thành phố Hồ Chí Minh, bà quy y ở Chùa Quảng Hương Già Lam năm 1987 và mất năm 1989, tại nhà riêng ở đường Lê Văn Sỹ.

Nghiệp văn: 

Văn nghiệp bà Thụy An khá phong phú.  Bà đã có thơ đăng trên Tạp chí Nam Phong năm 13 tuổi (1929).  Bà làm nhiều thơ nhưng không in thành tập.  Về tiểu thuyết, ngoài truyện dài Một linh hồn, bà xuất bản hai tập truyện ngắn là Vợ chồng (25 câu chuyện về hạnh phúc gia đình) và Bốn mớ tóc. 

 

Năm 1934, 18 tuổi, Thụy An bắt đầu nghề báo, cùng chồng lập tuần báo Đàn Bà Mới ở Sàigòn. Ông Bùi Nhung làm giám đốc chính trị, còn Thụy An làm giám đốc kiêm chủ bút. Năm 1937, bà ra Hà Nội chủ trương tờ Đàn Bà, năm 1939 bà làm chủ nhiệm báo Phụ Nữ Tân Văn ở Sài gòn, năm 1954 bà giữ chức quyền giám đốc Việt Tấn Xã và trong chiến tranh Việt - Pháp, Thụy An là phóng viên tham dự nhiều cuộc nhảy dù ra mặt trận để cung cấp tài liệu cho báo chí.
 

  

Về mặt sáng tác, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cho biết: Tác giả Thụy An vốn là một Nhà thơ. Tôi đã đọc thơ của Thụy An trong Phụ Nữ Tân Văn, trong Đàn bà mới và trong tuần báo Đàn bàĐánh giá về tiểu thuyết Một linh hồn của Thụy An, Vũ Ngọc Phan viết: Một linh hồn chính là một tiểu thuyết tình cảm, tả những tính tình rất ngây thơ, rất trong sáng của Vân, một cô gái giàu lòng tín ngưỡng và giống như một bông sen, tuy " gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"…

Nhưng đọc Một linh hồn, người ta nhận thấy điều này không được thiết thực: Hà Nội chưa có cái trình độ có một gái giang hồ sang trọng như Bảy Thanh, có lẽ tác giả đã đem cái khung cảnh Nam Kỳ, là nơi tác giả đã từng ở lâu năm, ra đất Bắc. Điều thứ hai nữa là đọc Một linh hồn, người ta vẫn chưa có cảm tưởng mình sống trong truyện cùng các nhân vật. Có lẽ Thụy An đã tả Bảy Thanh bằng những nét bút thô bạo quá và tả Vân bằng những nét mềm yếu quá chăng?

 
Ảnh chụp nhà văn Thụy An năm 1942 (T) và năm 1954 (P).(Ảnh : DR)

Ảnh chụp Nhà văn Thụy An năm 1942 và năm 1954 (Ảnh : DR)

Về biệt hiệu Thụy An Hoàng Dân, Bùi Thụy Băng, giải thích: Phan Khôi và Thụy An là hai người bạn vong niên từ lâu (Thụy An kém Phan Khôi 29 tuổi). Biệt hiệu Chương Dân của Phan Khôi và Hoàng Dân của Thụy An, là cùng để tưởng niệm đến một người anh hùng, có tên là Chương Hoàng Dân hay Hoàng Chương Dân.

Thụy An là tiểu thuyết gia phụ nữ duy nhất được Vũ Ngọc Phan lựa chọn trong bộ Nhà văn hiện đại, với tác phẩm Một linh hồn (xuất bản 1943). Trong bài phê bình dài dành cho tác phẩm Một linh hồn, Vũ Ngọc Phan nhận định: "Là một nhà thơ, nhưng bà là người đi tiên phong trong địa hạt tiểu thuyết với cuốn Một linh hồn" và ông kết luận "Tuy vậy Một linh hồn cũng đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt nam từ trước đến nay, tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn".

Về cuốn tiểu thuyết thứ nhì, Bốn mớ tóc (1952), Trinh Tiên nhận xét: "Đây là tập truyện gồm nhiều đoản tác: "Một thương", "Bà mẹ", "Cô con", "Mớ tóc"... Tác giả cố ý nêu cuộc sống dân tộc trong buổi giao thời, mọi sinh hoạt đan che nhau giữa mới và cũ. Điển hình như: một mái tóc phụ nữ. Cổ thì để dài vấn trần hoặc vấn khăn búi tó; mới thì cắt ngắn hoặc uốn quăn..." (Tiểu sử Thụy An, Trinh Tiên, Atlanta Việt Báo Xuân Ất Dậu, 2005).

Truyện ngắn của Thụy An in rải rác trên các báo tại Hà Nội. Phần lớn, chưa tìm lại được như: Chiếc cầu chân chó, Les vingt cinq meilleures histoires du monde bằng tiếng Pháp, do Hội Văn Bút Quốc tế xuất bản năm 1954 hoặc 1955. Một cuốn sách bà viết về gia đình, gửi một tờ báo ở San José in năm 1985. Tác phẩm Vợ chồng...

Một vài truyện được ghi lại như: Giết chó (in lại trên Khởi Hành, Hoa Kỳ, số 77, tháng 3/2003; in lần đầu trên Tạp chí Phổ thông của hội cựu sinh viên trường Luật Hà Nội, số 19-20 tháng 6-7/1953). Tác phẩm viết về hiện tượng cách mạng ra lệnh cho dân chúng đồng loạt giết hết chó để có thể đột nhập vào làng ban đêm mà không bị tiếng chó sủa phát giác.

Lại Nguyên Ân sưu tầm được một số tác phẩm của Thụy An trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, đã công bố trên Talawas, gồm những bài: "Nhân xem phim "Anh gắng nuôi con, đặt lại vấn đề Tân hiện thực", tiểu luận phê bình điện ảnh (Văn Nghệ, số 142, 11/10/1956) Chuyện bố, mẹ, bé và con búp bê, truyện ngắn (Trăm Hoa, 25/11/56), Chiếc lược, thơ (Trăm Hoa, 2/12/56). Trong thời kỳ Nhân Văn, bà có in một tập truyện ngắn, theo bài buộc tội của Vũ Đức Phúc, có những truyện như: Trường hợp tòng quân của thiếu úy Lâm, Bích-xu-ra...

Bài tiểu luận phê bình phim Anh gắng nuôi con của Nhật Bản, chứng tỏ không những Thụy An thông thạo tình hình điện ảnh thế giới sau đại chiến, đặc biệt hai nền điện ảnh Tân hiện thực của Ý và Nhật Bản, mà còn có những phân tích sắc bén, sâu xa về sự phục vụ của điện ảnh trong đời sống con người.   

 
Chân dung nữ sĩ Thụy An đăng trên Atlanta Việt Báo (Nguồn : atlantavietbao.com)

Chân dung nữ sĩ Thụy An đăng trên Atlanta Việt Báo (Nguồn : atlantavietbao.com)

Tuổi trẻ thơ mộng

Trong bài tiểu sử Thụy An, Trinh Tiên viết: "Hè năm 1932, cô Yến được cha mẹ cho học tư thêm. Thày giáo là một hàn sĩ người Quảng Bình, dáng dấp mảnh khảnh đầy vẻ cương  nghị.(...) Ông thầy giáo trẻ ấy đã bị trò Yến cùng các bạn trêu chọc gọi là "Anh đồ Nghệ". Hơn thế, Yến còn làm thơ nhạo báng dí dỏm:

Khéo ghét anh đồ xứ Nghệ

Hơn mình mấy tí tuổi đầu?" (trích bài "Sao lại mùa thu" của Thụy An)

(...). Nhưng chàng trai xứ Quảng này không chỉ là một hàn sĩ hay một nhà mô phạm đơn thuần, mà còn là một người yêu nước thiết tha, một nhà cách mạng chân chính. Cho nên trong những bài giảng đã gieo ảnh hưởng không ít đến lớp học trò(...) Hơn thế nữa, chính người thầy giáo trẻ ấy lại là một chiến sĩ hoạt động trong bóng tối. Chúng ta hãy lắng nghe lời thơ giới thiệu của Thụy An về người anh hùng đó:

Hung hãn vọng vào tiếng bể

Hờn căm rít ngọn gió Lào

Anh mang trùng dương giận dữ

Anh mang hoang dại khô khan.

Và như :

Mắt anh hừng trí bốn phương

Tay run nắm hồn dân tộc

Tóc xòa vương hận núi sông

Môi bậm  tai nghe rên xiết

Áo cơm dọa dưới cùm gông!

Thật sự, Thụy An đã hấp thụ tư tưởng cách mạng qua Thầy đồ Nghệ:

... Rồi anh bắt đầu dẫn dắt

Dạy em khui lửa bất bình

Oán hận réo sôi lòng đất

Công lý tù đầy uất uất

Miếng cơm nghẹn họng nhân sinh... (Trích: Sao lại mùa thu).

Thoảng chốc, lớp hè vài tháng trôi qua. Thày trò bịn rịn chia tay. Riêng thiếu nữ Thụy An còn nghe lòng vương chút bâng khuâng, diệu vợi... Nhưng lại là chút bâng khuâng rất nhẹ nhàng lờ lững... nó đã thoảng qua ngay trong lứa tuổi 16 thơ ngây ấy...Và cũng bởi rằng: "làm thinh... anh vẫn thản nhiên..." Còn chăng chút lưu luyến ở tâm hồn Thụy An là niềm cảm phục trang thanh nhiên chí khí, cô đã kết ý thơ thành chuỗi nguyện cầu :

Nguyện mình hoá vải hoá bông

Thấm lau giòng máu anh hùng thơm tho

Máu anh đã rửa quốc thù

Máu anh viết trước bài ca khải hoàn (thơ Thụy An)"

(Trích tiểu sử Thụy An của Trinh Tiên, bđd)

Bùi Thụy Băng cho biết thêm :

"Người thày giáo đề cập ở đây là Tướng Võ Nguyên Giáp. Khoảng 1930, ông ngoại của tôi đã mướn người thầy giáo sử địa Võ Nguyên Giáp về nhà kèm má tôi học. Năm 1933, má tôi theo thầy vô Nam - Ông Võ Nguyên Giáp muốn đưa bà cụ tôi sang Trung Hoa. Nhưng má tôi lại gặp ba tôi ở Sài gòn và hai người lấy nhau, sanh ra anh cả tôi là Bùi An Dương, năm 1934. Lúc đó ba má tôi đã xuất bản tuần báo Đàn Bà Mới, nên má tôi trở về Hà Nội cho Anh tôi làm con nuôi ông bà Trần Trọng Kim, để vô Nam tiếp tục lo tờ tuần báo. Năm 1937, ba má tôi trở ra Hà Nội sanh ra tôi là Bùi Thụy Băng" (Điện thư 15/9/2004)

Theo tiểu sử chính thức, Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911 (hơn Thụy An 5 tuổi). Năm 1931 ông ra Hà Nội học trường Albert Sarraut, sau đó học Luật. Ông kết hôn với bà Nguyễn Thị Quang Thái, năm 1934 (bà Thái chết trong hỏa lò Hà Nội năm 1943). Năm 1934, Thụy An cũng lấy chồng.

Như vậy, khoảng 1931-32, Võ Nguyên Giáp có thể đã dạy kèm Lưu Thị Yến, tại  nhà. Và đến hè 1932, nếu những lời ghi của Trinh Tiên là đúng, thì cô Yến và các bạn còn học thêm Võ Nguyên Giáp trong một lớp hè. Bài thơ dài Sao lại mùa thu của Thụy An, được Trinh Tiên trích dẫn, nói rõ không khí lớp hè năm đó và sự "quyến luyến" mà trò Yến dành cho người thày, đã gieo rắc vào tâm hồn cô gái 16, lý tưởng "cứu nước". Lưu Thị Yến, lúc đó 16-17 tuổi, cũng đã nổi tiếng vì có thơ đăng trên Nam Phong và được "giải thưởng văn học của triều đình". Sự việc này hư thật ra sao, chưa có tài liệu chứng minh rõ ràng, nhưng trong bài phỏng vấn, Lê Đạt nói một câu khá nhiều ý nghiã: "Chị Thụy An còn nói kín hở cho tôi biết rằng chị ấy đã từng tham gia kháng chiến! Việc liên lạc với kháng chiến trong thời ấy thì mình mất mối là chuyện bình thường, mà mất mối thì mình không thể chứng minh được."  Điều chắc chắn là qua những câu thơ trong bài Sao lại mùa thu, Thụy An đã nói lên lòng ái quốc của chính mình với những lời thơ bất khuất: Tay run nắm hồn dân tộc / Tóc xòa vương hận núi sông / Môi bậm  tai nghe rên xiết / Áo cơm dọa dưới cùm gông!

Chí khí Thụy An

Bài Tôi về quên mất cả xuân sang, ký ngày 5 tháng 11 âm lịch 1951, viết tặng vợ chồng Trinh Tiên, là một bài trường ca, nói lên chí khí của Thụy An. Bài thơ dài kể chuyện một đêm xuân ở Sài Gòn, nhớ Hà Nội, nhà thơ bước vào vũ trường, gặp người vũ nữ ngày xưa là em gái bạn. Người vũ nữ kể lại bi kịch của gia đình mình: Mẹ nàng có ba người con, sống trong êm ấm. Bỗng đâu, phong ba xẩy đến :

"Năm đi cho tháng theo lần,

Mà trong êm đã ngấm ngầm phong ba.

Gió cuốn lật úp sơn hà,

Màn che trướng rủ bỗng ra dãi dàu,

Gió đưa khăn gói về đâu?

Con đường vô định trước sau còn dài

- Tình nhà, tình nước bời bời

Mẹ năn nỉ giữa, nước đòi thiết tha.

Đã đành nghiã nặng mẹ cha

Nỡ vô tình lúc nước nhà ngửa nghiêng?

Chịu sinh làm gái vô quyên,

Nỡ mang cái tiếng yếu mềm, bó tay?

Ầm tiếng súng Sơn Tây vẳng lại,

Sôi má hồng, quăng thói nữ nhi,

Chị em phận sự hai chia

Em nuôi mẹ, chị ra đi chiến trường.

Lần thứ nhất mở đường ly tán,

Cũng từ đây, hoạn nạn gieo neo:

Nhìn nhau lặn suối, trèo đèo

Mẹ già em nhỏ đến điều gian truân.

Rồi người chị cả hy sinh trên chiến địa:

Tin đâu sét đánh thình lình

Chị yêu thôi đã bỏ mình phương xa,

Nơi chiến địa xác hoa phơi giãi,

Bài điếu văn cú gọi hồn ma

Một đi lià cửa lià nhà

Một đi thế cũng kể là trăm năm.

Người mẹ và hai con còn lại, cuốn trong gió lốc:

Thân vong gia giật dờ cánh gió...

Đoạn thảm thương lần giở thêm trang:

Một đêm đang lúc mơ màng,

Thức ra giặc đã khắp làng bao vây.

Mẹ con chúi bụi cây ẩn nấp

Đạn nổ tung, trời sập đất nhào...

Tỉnh ra tủi nhục làm sao!

Tấm thân thôi đã lọt vào tanh hôi!

Bên mình, mẹ vẫn ngồi mà chết

Đầu văng xa, máu thịt bét be

Xác em nguyên vẹn nằm kề

Tay níu mẹ, sợ đường về lạc chăng?

Chưa kịp khóc thì quân lang sói

Đã lôi em về mãi đồn xa...

Nhục thay là phận đàn bà

Trong cơn binh lửa mà sa tay thù!!

Thôi gập sách! Để cho kết liễu

Đoạn về sau thừa hiểu là đây"

Dứt lời, chỉ khẽ nhíu mày,

Lạnh khô đôi mắt. Bóng ngày vừa tan...

Bài ca hùng tráng, bi thương, ít có trong thời kháng chiến, nói lên tất cả những khía cạnh con người của Thụy An. Giọng thơ mạnh mẽ, quyết liệt: "Gió cuốn lật úp sơn hà". Hai chữ lật úp thật là vũ bão. Rồi sự phân chia tình nước, tình nhà trong suốt cuộc đời bà: vừa nuôi 6 con, vừa có chí lớn: "Tình nhà, tình nước bời bời / Mẹ năn nỉ giữa, nước đòi thiết tha". Sự lựa chọn của người phụ nữ trước tình thế đất nước: "Nỡ vô tình lúc nước nhà ngửa nghiêng? Nỡ mang cái tiếng yếu mềm, bó tay? Sự căm phẫn của người nữ anh hùng: Sôi má hồng, quăng thói nữ nhi. Cái chết khốc liệt và của người nữ chiến sĩ: Nơi chiến địa xác hoa phơi giãi / Bài điếu văn cú gọi hồn ma. Quang cảnh kinh hoàng chết chóc của người dân mất nước: Bên mình, mẹ vẫn ngồi mà chết / Đầu văng xa, máu thịt bét be / Xác em nguyên vẹn nằm kề / Tay níu mẹ, sợ đường về lạc chăng?

Thơ Thụy An nói lên chí khí của bà, nói lên sự quyết liệt khi cần phải quyết liệt, nói lên cái hận mất nước, sự không chịu bó tay của người phụ nữ. Sáng tác của bà từ truyện cổ tích đến truyện ngắn, tiểu luận, và nhất là thơ, đã quét sạch những dòng nhơ bẩn viết về bà, giải thích tại sao Thụy An không chịu lùi bước trước cường quyền và bạo lực.


 
QUANG BINH (ST & TH)


Gửi ý kiến của bạn
(Xin hãy viết chữ có dấu! Xin cảm ơn!)