Ξ|Ξ   GƯƠNG SÁNG ::. HỘI GÁI - DÂU - RỂ LƯU TỘC VN.
Đăng ngày 2/8/2012
E-mail     Bản in

LƯU LỆ HẰNG với hai “Nobel Thiên văn học”
Cuộc tìm kiếm từ đỉnh núi lửa
TTCT - Năm 2012 - Nhâm Thìn quả là năm “đại cát” đối với nhà vật lý thiên văn Lưu Lệ Hằng. Tên tuổi chị gần như cùng lúc được xướng lên ở cả hai lục địa Á, Âu với hai giải thưởng danh giá bậc nhất thế giới, hai “Nobel thiên văn học”.

 

Nhà vật lý thiên văn Lưu Lệ Hằng - Ảnh nhân vật cung cấp

Tuần trước, trong một bức email từ Paris (Pháp) gửi về Hà Nội cho GS Nguyễn Văn Hiệu và cho tôi, GS Trần Thanh Vân viết: "Tôi rất vui mừng báo với các anh rằng Jane Luu vừa được tặng Giải Kavli về vật lý thiên văn (xem TTCT số ra ngày 10-6-2012). Chắc các anh còn nhớ, tôi từng mời cô ấy về TP.HCM hồi tháng 10-1995 dự Gặp gỡ Việt Nam lần thứ II, nơi cô ấy đã trình bày một bản báo cáo về việc khám phá mấy chục tiểu hành tinh trong vành đai Kuiper".

Bao nhiêu ký ức bỗng nhiên ùa về. Nhanh quá đi thôi! Tôi quen Lưu Lệ Hằng "chốc đà mười mấy năm trời"! Đó là vào một buổi sáng mùa thu, sáng 21-10-1995 tại dinh Thống Nhất, nơi diễn ra cuộc Gặp gỡ Việt Nam lần thứ II về vật lý.

Sáng hôm ấy, Lưu Lệ Hằng (tên Mỹ là Jane X. Luu) trông giống như một nữ sinh viên đại học năm cuối, hơi "bụi", áo thun màu vàng chanh sọc đen, quần jean màu lam thẫm bó sát người, tóc cắt ngắn lộ gáy như con trai, đi giày thể thao trắng nổi gân đỏ, trên môi luôn nở nụ cười. Tôi rất khó chụp được một pô ảnh nào mà Lệ Hằng mang dáng vẻ mô phạm, dù đang là assistant professor ở Harvard.

Chị sinh năm 1963 tại quận 5, TP.HCM, tính đến tháng 10-1995 đã 32 tuổi nhưng trông trẻ quá, nên tôi mới có thể xưng hô thân mật khi chuyện trò với chị. Lệ Hằng rất vui vì sau 20 năm xa cách, giờ mới được gặp lại bao bạn bè, người thân ở Sài Gòn xưa.

Ở Mỹ có ba chức danh khoa học dành cho các thầy cô dạy đại học là assistant professor (ta dịch chưa thật chính xác là trợ lý giáo sư), associate professor (phó giáo sư) và full professor (giáo sư). Tuy "học hàm" chưa phải đã cao nhưng danh tiếng Jane Luu lúc ấy nổi như cồn, do chị vừa cùng David Jewitt khám phá ra mấy chục tiểu hành tinh trong vành đai Kuiper...

Can đảm bơi ngược dòng dư luận


David và Jane chụp ảnh các thiên thể, theo dõi trên màn hình máy tính suốt năm năm trời ròng rã! Ấy vậy mà chẳng thu được một mảy may bằng chứng nào về sự tồn tại của vành đai Kuiper! Để khỏi thoái chí, ngả lòng, chị thường tự động viên mình bằng câu châm ngôn của Thomas Alva Edison: “Thiên tài là 1% cảm hứng và 99% mồ hôi”.

Mãi tới năm 1991 người ta chỉ mới biết chín hành tinh thuộc Hệ Mặt trời. Sáu hành tinh đầu tiên (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và Trái đất) đã được biết từ thời cổ đại Ai Cập, Hi Lạp, Trung Hoa, Ấn Độ. Nhưng phải chờ đến năm 1781, William Herschel (người Anh) mới phát hiện Thiên Vương tinh (Uranus). Năm 1846, Hải Vương tinh (Neptune) mới được định vị nhờ các tính toán của Urbain Le Verrier (người Pháp) và John Adam (người Anh). Và năm 1930, Clyde Tombaugh mới tìm ra Diêm Vương tinh (Pluto).

Cách gọi "bình dân", quen thuộc là Sao Kim, Sao Mộc... không chuẩn về mặt khoa học, bởi lẽ đã là "sao" (star) thì phải bức xạ ánh sáng, chứ các hành tinh (planet) như Kim tinh, Mộc tinh... thì chỉ phản xạ ánh sáng Mặt trời mà thôi. Mặt trời của chúng ta mới đích thực là một ngôi sao, nhưng cũng chỉ - theo GS Trịnh Xuân Thuận - vào loại "thường thường bậc trung" trong tổng số... vài trăm tỉ ngôi sao của dải Ngân hà (Milky Way) mà thôi!

Ngoài chín hành tinh mà hầu như ai ai cũng biết, còn có vô số tiểu hành tinh ngoan ngoãn quay quanh Mặt trời, trong cái mà các nhà thiên văn học gọi là "vành đai tiểu hành tinh" hay "khu dự trữ tiểu hành tinh".

Vành đai tiểu hành tinh thứ nhất nằm giữa Hỏa tinh và Mộc tinh, từ lâu các nhà thiên văn đã biết rất rõ qua quan sát bằng các kính thiên văn, cũng như qua nghiên cứu kết quả khảo sát của các trạm thăm dò không gian phóng tới vùng Hỏa tinh và Mộc tinh. Nếu người ta tập hợp tất cả các tiểu hành tinh của vành đai thứ nhất lại thành một thiên thể duy nhất thì nó sẽ có đường kính gần 1.500km, tức là nhỏ hơn đường kính Mặt trăng 2,3 lần, và nhỏ hơn rất nhiều so với các hành tinh trong Hệ Mặt trời.

Vành đai tiểu hành tinh thứ hai nằm ở cửa ngõ Hệ Mặt trời, tức là phía ngoài Hải Vương tinh, được gọi là "vành đai Kuiper" (Kuiper Belt), theo tên nhà thiên văn học Mỹ gốc Hà Lan Gerard Kuiper (1905-1973), người đầu tiên phỏng đoán về sự tồn tại của vành đai ấy.

Trong nhiều năm, phỏng đoán đó bị nhiều nhà thiên văn học coi như một ý tưởng "tầm phào vô căn cứ"! Cho nên việc chứng minh phỏng đoán ấy bị cho là... "phí công vô ích"! Bởi thế, chẳng có cơ quan nào chịu cấp kinh phí cho dự án nghiên cứu của Jewitt và Luu. Nhiều chuyên gia lúc ấy nghĩ rằng mọi ngóc ngách trong Hệ Mặt trời đều đã được các trạm thăm dò do Mỹ và Liên Xô (cũ) phóng tới tận nơi, khảo sát kỹ lưỡng lắm rồi, còn có gì bí ẩn nữa đâu để mà tìm kiếm! Ý định của "nàng Jane" kia thật là... kỳ cục!

Can đảm bơi ngược dòng dư luận, năm 1987 nghiên cứu sinh Jane Luu bắt đầu khảo sát vành đai Kuiper với sự hướng dẫn của David Jewitt. David hơn Jane năm tuổi. Anh làm việc tại Viện Thiên văn học thuộc Đại học Hawaii, cách nơi Jane làm hàng vạn dặm đường xa. Không được ai chi tiền, hai anh chị đành phải bỏ tiền túi ra làm. Anh là chuyên gia về cấu tạo của Hệ Mặt trời, về khoa học các hành tinh, bao gồm cả các vật thể - nếu có - ở vùng ngoài Hải Vương tinh (Trans-Neptunian Objects/TNOs) và những sao chổi phát sinh từ vùng ấy.

Cuộc kiếm tìm với "99% mồ hôi"

Mỗi mùa hè Jane rời Massachusetts bay hơn nửa vòng Trái đất tới Hawaii, cùng làm việc với David ba tuần. Hiếm khi thấy chị mặc bikini phơi mình trên những bãi tắm Hawaii cát trắng tuyệt đẹp bên bờ tây Thái Bình Dương, ở bang thứ 50 của nước Mỹ. Chị dành hầu hết thời gian cho việc khảo sát tại kính viễn vọng đường kính 2,2m trên đỉnh cao chót vót của ngọn núi lửa đã tắt Mauna Kea. Kính viễn vọng này cho phép chị nhìn rõ hơn so với những lần quan sát trước với kính viễn vọng trên núi Kitt Peak, bang Arizona.

Đôi khi ta vẫn hình dung nhà thiên văn học như một khách lữ hành có thể tùy ý "dạo gót hải hồ" khắp nơi nơi. Thật ra, không dễ được chấp nhận đến làm việc tại một đài thiên văn! Phải có kinh phí, phải được nhà trường phê duyệt, rồi lại phải đăng ký giữ chỗ trước cả năm trời, trần ai lắm!

Đài thiên văn Mauna Kea nằm ở độ cao hơn 4.000m trên mực nước biển, không khí loãng. Quan sát thiên văn phải tiến hành ở nơi hẻo lánh, cách ly với những nhiễu động của ánh sáng nhân tạo và sóng radio ở chốn thị thành đông đúc. Jane luôn cảm thấy mệt rã rời vì thiếu oxy.

Như cánh vạc bay, chị quen làm việc ban đêm. Mỗi tuần quan sát năm đêm. Mỗi đêm bắt đầu từ lúc chập tối tới 2g sáng mới tạm nghỉ, rồi lại làm tiếp cho đến khi trời sáng bạch. Thu dọn máy móc, đồ dùng cá nhân, đi ăn sáng, rồi trở về phòng riêng nằm lăn ra ngủ chập chờn, mộng mị do thiếu oxy, hơn nữa lại phải ngủ giữa ban ngày, khi mọi người đi làm hay đi tắm biển.

Diêm Vương tinh nằm ở vùng "biên viễn" xa tít mù khơi, cách Mặt trời 5,5 giờ - ánh sáng. Ta còn nhớ vận tốc ánh sáng là 300.000 km/giây, khoảng cách Trái đất - Mặt trăng là 1,3 giây - ánh sáng, và khoảng cách Trái đất - Mặt trời là 8 phút - ánh sáng. Trái đất quay quanh Mặt trời chỉ mất một năm, còn Diêm Vương tinh phải... 248 năm mới chu du hết một vòng như thế! Bởi lẽ quỹ đạo của thiên thể này quanh Mặt trời quá dài...

Đó là hành tinh duy nhất trong Hệ Mặt trời chưa có tàu thăm dò nào ghé thăm. Phi thuyền Chân trời mới do NASA phóng lên năm 2006, theo dự tính, phải mất chín năm trời đằng đẵng tức là đến tận năm 2015 mới mong tới được Diêm Vương tinh! Lúc ấy, việc liên lạc giữa Trái đất và Diêm Vương tinh sẽ khó khăn biết mấy! Nếu xảy ra một sự cố nào đó thì phải năm tiếng rưỡi sau các kỹ sư trên Trái đất mới biết và, do đó, mới gửi lệnh bằng tín hiệu radio cho phi thuyền khắc phục.

Nhưng dù muốn hay không cũng phải chờ thêm năm tiếng rưỡi nữa, Chân trời mới mới nhận được cái lệnh "khẩn cấp" kia để mà chấp hành! So với kích thước vũ trụ, vận tốc ánh sáng quả là... chậm như rùa bò! Albert Einstein đã từng phiền lòng "kêu" lên như thế khi đưa ra thuyết tương đối hẹp năm 1905, rồi thuyết tương đối rộng năm 1915...

Theo phỏng đoán, vành đai Kuiper nằm ở phía ngoài Hải Vương tinh, gần Diêm Vương tinh. David và Jane rất khó thu được ánh sáng của các tiểu hành tinh - nếu có - trong vành đai ấy, bởi vì nó quá mờ! Ai cũng biết các hành tinh (cũng như tiểu hành tinh) không hề phát ra ánh sáng mà chỉ phản xạ ánh sáng Mặt trời. Thế nhưng, vành đai Kuiper lại ở quá xa Mặt trời, khoảng 7,4 tỉ km!

Ánh sáng Mặt trời chiếu tới vành đai đó tất nhiên đã quá yếu. Ánh sáng phản xạ từ vành đai đó tới kính thiên văn trên núi Mauna Kea lại càng yếu hơn. Liệu David và Jane có "tóm" được những hạt photon yếu ớt đó không?

Mặc dù hai người đã quan sát ở một đài thiên văn mặt đất vào loại mạnh, và đã dùng máy ảnh kỹ thuật số thế hệ mới, có độ nhạy cao gấp hai lần và trường nhìn rộng gấp bốn lần so với thế hệ trước, nhưng kết quả vẫn chỉ là... con số 0 to tướng !


Đêm định mệnh

Năm năm - một quãng thời gian không thể coi là ngắn của tuổi thanh xuân - phải chăng Lệ Hằng đã hoàn toàn phí phạm do lao vào một... “cuộc kiếm tìm vô vọng”?!
Vành đai Kuiper (tranh của Don Dixon) - Ảnh: centralastronomyclass.pbworks.com/

Dù thế nào chăng nữa, Lệ Hằng vẫn tự dặn mình "Đừng tuyệt vọng, tôi ơi, đừng tuyệt vọng" bởi vì "Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh". (*)

"Cứu" Gerard KuiperR

Quả vậy, trời không phụ lòng những ai bền chí!

Thành công bất ngờ ập đến, nhưng không phải vào buổi "bình minh" như lời bài hát mà vào một "đêm định mệnh", đêm 30-8-1992, đêm thứ hai Jane dùng máy ảnh số thế hệ mới. Chị như loài chim vạc quen "ăn đêm" mà!

Theo quy trình, hai người chụp ba tấm ảnh kế tiếp nhau về một khoảnh hẹp trên vòm trời. Mỗi lần mất 15 phút. Sau đó xem lại ba tấm ảnh ấy trên màn hình máy tính, coi thử có một vật thể nào đó đang thay đổi vị trí hay không. Nếu chỉ chụp hai tấm thì rất có thể chỉ ngẫu nhiên ghi lại hình ảnh của hai tia vũ trụ bất ngờ bay tới kính viễn vọng. Jane không bao giờ chỉ mới chụp được hai tấm đã dừng lại. Nhưng đêm ấy David bỗng nhiên dừng lại ở tấm ảnh thứ hai.

- Jane ơi - David nói - Xem đây, cái chấm sáng này không sắc nét như dấu vết tia vũ trụ. Nó mờ nhòe, có lẽ đó là hình ảnh một thiên thể lạ đang di chuyển...

Suốt hai tiếng đồng hồ sau đó, hai người lần lượt chụp tấm ảnh thứ ba, rồi thứ tư, và phóng to lên để thấy rõ hơn hình ảnh cái thiên thể lạ kia đang di chuyển mỗi lúc một xa hơn.

Sau này kể lại cái "đêm định mệnh" ấy, Jane Luu nói:

- David và tôi chẳng dám hi vọng gì nhiều! Bởi vì chúng tôi đã làm cái công việc chụp ảnh đơn điệu buồn tẻ ấy suốt năm năm rồi, mà chẳng "thấy" được một cái gì khác lạ cả!

Hai người bảo nhau hãy giữ cho đầu mình "lạnh" dù trái tim đang "nóng". Họ không vội công bố kết quả. Những đêm sau, họ lại quan sát, lại chụp ảnh, cho đến khi thu thập đủ chứng cứ vững chắc để có thể khẳng định rằng đó là một thiên thể mới, một tiểu hành tinh chưa ai từng khám phá.

Tiểu hành tinh ấy mang ký hiệu (15760)1992QB1. Đó là tiểu hành tinh đầu tiên tìm thấy trong vành đai Kuiper. Nó có đường kính rất lớn, tới 280km, bằng 1/8 đường kính của Diêm Vương tinh, quay xung quanh Mặt trời ở khoảng cách 6,6 tỉ km, xa gấp 44 lần khoảng cách Trái đất - Mặt trời. Sau đó, hai anh chị còn sát cánh bên nhau nhiều năm nữa, và cùng Jun Chen - một nghiên cứu sinh trẻ người Trung Quốc - phát hiện thêm 27 tiểu hành tinh khác nữa.

Theo Jane Luu, số vật thể trong vành đai Kuiper có thể lên tới... 100 tỉ! Trong đó có khoảng 10.000 thiên thể cỡ lớn, với đường kính hơn 100km! Vành đai ấy cũng là nơi phát sinh các sao chổi ngắn hạn, được cấu tạo từ thiên thạch. Đây là nơi thuận lợi để nghiên cứu về thuở ban đầu hình thành Hệ mặt trời cách nay... 4,5 tỉ năm! Bởi lẽ các vật thể trong vành đai ấy là những thứ thừa thãi còn rơi rớt lại sau khi tạo nên các hành tinh.

Một nghiên cứu sinh khác, Michael E. Brown, kém Jane Luu 2 tuổi, bắt đầu tham gia nhóm nghiên cứu vành đai Kuiper. Michael phát hiện được thiên thể Eris có khối lượng lớn hơn cả Diêm Vương tinh (đường kính Diêm Vương tinh chỉ là 2.390km). Điều đó khiến cho Hiệp hội Thiên văn học quốc tế bèn đặt ra một lớp mới các thiên thể gọi là "hành tinh lùn" (dwarf planet), do khối lượng của chúng bé hơn nhiều so với các hành tinh.

Kết quả là Hệ mặt trời giờ đây chỉ còn lại tám hành tinh đúng chuẩn. Diêm Vương bị "giáng cấp" vì không đạt chuẩn, chỉ còn được coi là một thiên thể bình thường trong vành đai Kuiper, "bằng vai phải lứa" với các "hành tinh lùn" khác như Eris, Sedna!

Khám phá của nhóm David Jewitt, Jane Luu và Michael Brown về vành đai Kuiper được coi là một thành tựu đột phá, gây đảo lộn về nhận thức trong giới thiên văn học thế giới. Tổng khối lượng các hành tinh lùn và tiểu hành tinh trong vành đai Kuiper có thể lớn gấp hàng trăm lần tổng khối lượng của vành đai tiểu hành tinh nằm giữa các quỹ đạo của Hỏa tinh và Mộc tinh. Và kết quả là khối lượng của Hệ mặt trời cũng thay đổi nhiều...

Vành đai Kuiper không còn bị coi là một "phỏng đoán vu vơ vô căn cứ"! Jane Luu cùng David Jewitt đã "minh oan", đã "cứu" Gerard Kuiper khỏi bị dư luận chê cười...


David Jewitt (trái) và Jane Luu trên The Wall Street Journal sau khi họ được tuyên bố nhận giải thưởng Shaw

Tiểu hành tinh 5430 Luu

Để vinh danh Jane Luu, một tiểu hành tinh trong vành đai Kuiper được cộng đồng thiên văn học thế giới đặt tên là 5430 Luu (The asteroid 5430 Luu is named in her honor - Wikipedia). Thế là họ Lưu của Lệ Hằng, người con gái Việt quê gốc ở Nam Định, Hải Phòng - những miền quê khoa bảng, nơi đã từng sinh ra Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lương Thế Vinh - sẽ còn lại mãi trong lịch sử thiên văn học của nhân loại.

Chính vì thành công vang dội đó, ngày 31-5-2012, tại Oslo, Viện hàn lâm Khoa học và văn học Na Uy, Quỹ Kavli cùng Bộ Giáo dục và nghiên cứu Na Uy ra thông cáo báo chí cho biết: Ba nhà vật lý thiên văn David Jewitt, Jane Luu và Michael Brown sẽ được trao Giải Kavli về vật lý thiên văn năm 2012 "cho sự khám phá và mô tả vành đai Kuiper và những bộ phận cấu thành lớn nhất của nó; công trình dẫn tới một bước tiến lớn trong việc hiểu biết lịch sử hệ hành tinh của chúng ta".

Giải Kavli gồm bằng chứng nhận, tấm huy chương vàng, kèm theo số tiền tổng cộng 1 triệu đôla Mỹ. Lễ trao giải thưởng Kavli sẽ diễn ra ngày 4-9-2012 tại Cung Hòa nhạc ở thủ đô Oslo, Vương quốc Na Uy.

Trước đó hai hôm, chiều 29-5-2012, tại Hong Kong, Quỹ giải Shaw cũng đã công bố danh sách những nhà khoa học được tặng ba giải Shaw năm 2012 về ba lĩnh vực: thiên văn học, sinh - y học và toán học. Mỗi giải trong từng lĩnh vực được kèm theo tổng số tiền 1 triệu đôla Mỹ. Giải Shaw được giới khoa học thế giới coi là "Nobel của phương Đông" (Nobel of the East). Cũng như giải Kavli, giải Shaw không nhằm cạnh tranh mà nhằm bổ sung cho giải Nobel.

David Jewitt và Jane Luu là hai người được tặng Giải Shaw thiên văn học năm 2012 do "việc khám phá và mô tả những vật thể ngoài Hải Vương tinh, một kho báu khảo cổ học về thời kỳ xa xăm khi mới hình thành Hệ mặt trời, và đó cũng là nguồn gốc được tìm kiếm từ lâu về các ngôi sao chổi ngắn hạn".

Quỹ giải Shaw ra đời năm 2002 tại Hong Kong, do nhà tỉ phú ngành truyền thông giàu lòng nhân ái Run Run Shaw (tên chữ Hán là Thiệu Dật Phu/ ) sáng lập. Năm nay, Thiệu tiên sinh (tức ngài Shaw) đã 104 tuổi mà vẫn minh mẫn, nghe đâu nhờ uống thuốc bắc và thực hành phép dưỡng sinh... Lễ trao giải Shaw sẽ diễn ra vào một ngày đầu thu năm 2012 tại Hong Kong, Trung Quốc.

Năm 2012 - Nhâm Thìn quả là năm "đại cát" đối với nhà vật lý thiên văn Lưu Lệ Hằng khi chị đồng thời được tặng hai giải thưởng danh giá bậc nhất thế giới, hai "Nobel thiên văn học".

Lưu Lệ Hằng thuộc kiểu người "mỗi ngày tôi chọn một niềm vui", ưa khám phá, trải nghiệm, không chỉ trong vật lý thiên văn cao siêu mà cả trong đời thường gần gũi. Chị thích chơi đàn cello, mê sách, giỏi tiếng Pháp chẳng kém gì thạo tiếng Anh, và lại còn thích viết lách văn chương nữa chứ.

Với túi tiền rất nhẹ của một nghiên cứu sinh, chị không ngại du lịch balô đến tận Nepal, bên dãy Himalaya ngất trời, nơi Đức Phật tĩnh tâm nhập định dưới tán lá cây bồ đề, thoát khỏi vô minh, thấu triệt diệu đế, đốn ngộ chân lý của muôn đời. Rồi chớp ngay thời cơ chính quyền Trung Quốc mở cửa biên giới Nepal - Tây Tạng, chị đặt chân lên "nóc nhà thế giới", nơi không khí rất loãng, đôi khi phải đeo bình ôxy. Ngồi trong thảo am, chị uống trà pha sữa bò yak với các nhà sư dòng Mật Tông, rồi vào làng dạy chữ cho các em nhỏ. Chị đến Mông Cổ, đi ngựa trên sa mạc và thảo nguyên, ngủ đêm trong lều du mục. Chị xuống tận miền nam lục địa đen thăm đảo quốc Madagascar...

Thế giới có biết bao nhiêu điều thú vị, lẽ nào Lệ Hằng lại ngồi yên một chỗ?...


Được một nhà báo Mỹ hỏi: “Chị có điều gì muốn gửi gắm đến các bạn trẻ trên thế giới?”, Lưu Lệ Hằng nói:

- Đức kiên trì dẫn dắt ta vượt qua những chặng đường xa thẳm, khiến ta không dừng bước. Thông minh xuất chúng ai mà chẳng muốn, song không mấy người trong chúng ta có được. Tôi nghĩ nếu yêu thích một điều gì đó thì bạn hãy luôn nghĩ tới nó, và rồi cuối cùng thế nào bạn cũng sẽ nảy ra một ý tưởng hay.

Ở một vài người ý tưởng hay xuất hiện từng ngày. Ở những người khác có khi phải chờ đợi cả năm. Bạn hãy bền lòng chờ đợi và không bao giờ ngừng nghĩ tới nó. Khi đã có ý tưởng hay, bạn hãy tự hỏi mình xem có dám thực hiện ý tưởng ấy không. Nếu bạn kiên trì thì nhất định rồi sẽ làm được một cái gì đó có ý nghĩa. Đam mê tức là bạn đã đi được nửa chặng đường đến đích.

David Jewitt, người đồng nghiệp gần gũi của tôi, thường nói: “Thiên hạ rất ưa dùng từ xuất sắc; ồ, nhà thiên văn kia rất xuất sắc. Không phải! Anh ta yêu thích công việc anh ta làm. Tất cả chỉ có thế thôi”.


Theo HÀM CHÂU