Ξ|Ξ   HIẾU - HỶ ::. NGÀY GIỖ - TƯỞNG NIỆM.
Đăng ngày 4/8/2006
E-mail     Bản in

Tưởng nhớ Nhà thơ LƯU TRỌNG LƯ
Lưu Trọng Lư (Sinh ngày 19 tháng 6 năm 1912 - Từ trần ngày 10 tháng 8 năm 1991 nhằm ngày mùng 1 tháng 7 Âm lịch) Ông là một Nhà thơ, Nhà văn, Nhà soạn kịch Việt Nam.
Lưu Trọng Lư quê làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Ông học đến năm thứ ba tại trường Quốc học Huế thì ra Hà Nội làm văn, làm báo để kiếm sống. Ông là một trong những nhà thơ khởi xướng Phong trào Thơ mới và rất tích cực diễn thuyết bênh vực "Thơ mới" đả kích các nhà thơ "cũ". Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia Văn hoá cứu quốc ở Huế. Trong kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động tuyên truyền, văn nghệ ở Bình Trị Thiên và Liên khu IV. Sau năm 1954, ông tiếp tục hoạt động văn học, nghệ thuật: hội viên Hội nhà văn Việt Nam từ năm 1957, đã từng làm Tổng thư ký Hội nghệ sỹ sân khấu Việt Nam. Ông mất tại Hà Nội. Con trai thứ chín của ông, Lưu Trọng Ninh cũng là một đạo diễn phim khá nổi tiếng của Việt Nam. 

Ông đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2000. 

Tác phẩm tiêu biểu: 

Thơ 
   * Tiếng thu (1939) 
   * Tỏa sáng đôi bờ (1959) 
   * Người con gái sông Gianh (1966) 
   * Từ đất này (197l) 

Sân khấu 
   * Nữ diễn viên miền Nam (cải lương) 
   * Cây thanh trà (cải lương) 
   * Xuân Vỹ Dạ (kịch nói) 
   * Anh Trỗi (kịch nói) 
   * Hồng Gấm, tuổi hai mươi (kịch thơ,1973) 

Văn xuôi 
   * Người sơn nhân (truyện, 1933) 
   * Chiếc cáng xanh (truyện, 1941) 
   * Khói lam chiều (truyện, 194l) 
   * Mùa thu lớn (tuỳ bút, hồi ký, 1978) 
   * Nửa dêm sực tỉnh (hồi ký, 1989)

 

1. Đôi mắt 22. Lại tiễn con
2. Đi giữa vườn nhân 23. Mây
3. Đường ta đi thế đấy bạn lòng ơi! 24. Miếng đất
4. Ông La Hán hở sườn 25. Ngựa say
5. À ơi! 26. Người con gái sông Gianh
6. Bài ca vĩnh cửu 27. Nhật kí nửa nằm nửa ngồi: viết
7. 28. O tiếp tế
8. Bức thư đêm giao thừa 29. Phật nằm
9. Có lẽ nào anh chết 30. Phật nghìn tay
10. Chải lại đời anh 31. Tự sự đêm
11. Chảy thành sông 32. Tội giặc
12. Chiếc ghế 33. Thu Hạ Long
13. Chuông điểm 34. Tiếng hát hôm nay
14. Con chim non 35. Tiếng vạc đêm Niu Đenly
15. Em có nghe 36. Tráng sĩ
16. Em Mai 37. Trên bãi biển
17. Em thời gian, ngừng tay! 38. Tuổi 80
18. Giữa mùa gió thổi 39. Vòng chuỗi ngọc
19. Hồn lẫn xác 40. Vô đề (I)
20. Lót ổ 41. Vô đề (II)
21. Lại mùa phượng đỏ  

Tiếng thu (1939) 

1. Hôm qua 27. Trên bãi biển
2. Nắng mới
3
28. Trường hận
3. Thơ sầu rụng 29. Lá bàng rơi
4. Bao la sầu 30. Suối mây
5. Đan áo
1
31. Lòng cô phụ
6. Lá mồng tơi 32. Đã khuya rồi
7. Túp lều cỏ 33. Một mùa đông
1
8. Giang hồ 34. Chị em
9. Tiếng thu
1
35. Đợi
10. Sứ giả 36. Mây trắng
11. Khi thu rụng lá 37. Chiều cổ
12. Một chút tình 38. Điệu huyền
13. Tình điên 39. Khi yêu
14. Mưa... mưa mãi 40. Chia ly
15. Còn chi nữa
1
41. Hương lòng
16. Hoa xoan 42. Cảnh thiên đường
17. Thuyền mộng 43. Im lặng
18. Hoàng hôn 44. Chiếc cáng điều
19. Xuân về 45. Thú đau thương
20. Gió 46. Núi xa
21. Trăng lên (I) 47. Hồn nghệ sĩ
22. Hoa bên đường 48. Lại uống
23. Điệu hát lẳng lơ 49. Trăng lên (II)
24. Lại nhớ 50. Bâng khuâng
25. Vắng chàng 51. Mộng chiều về
26. Xin rước cô em 52. Ngày xưa

Chân dung và đối thoại - Bài 03: Lưu Trọng Lư

 

Vanachi

 

Lưu Trọng Lư là nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới. Nhận định về nghệ thuật thơ ông, nhà phê bình thiên tài Hoài Thanh đã có những nhận xét thật chuẩn xác:Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết chọn chữ, không chịu khó gọt giũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu Lư chỉ để lòng mình tràn lan trên mặt giấy.

Nhận định này dường như đã thành nỗi ám ảnh, và rồi suốt đời, Lưu Trọng Lư cứ loạng choạng, cứ bập bõm bước trong cái vòng kim cô mà Hoài Thanh đã tiên đoán và vạch ra ngay từ khi ông mới xuất hiện trên thi đàn, 

Còn về con người Lưu Trọng Lư, thiết tưởng cũng chẳng có ai hiểu ông hơn Hoài Thanh: Cả đời Lư cũng là một bài thơ, nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết. 

Quả đúng vậy, và nếu chọn một bài thơ thơ nhất của Việt Nam, nghĩa là ngoài thơ ra, nó không có gì bấu víu, thì đó chính là Tiếng thu. Đây là bài hay nhất trong đời thơ Lưu Trọng Lư, cũng là bài thơ thơ nhất của thi ca Việt Nam hiện đại: 
Em không nghe mùa thu 
Dưới trăng mờ thổn thức? 
Em không nghe rạo rực 
Hình ảnh kẻ chinh phu 
Trong lòng người cô phụ 
Em không nghe rừng thu 
Lá thu kêu xào xạc 
Con nai vàng ngơ ngác, 
Đạp trên lá vàng khô... 
Bài thơ vẻn vẹn có 9 câu, chia làm ba đoạn, mỗi đoạn lại so le, các ý trong bài thơ rời rạc, khấp khểnh, chẳng ý nào ăn nhập với ý nào. Nếu cứ theo cách hiểu máy móc của những nhà phê bình quen thói bắt bẻ, cứ đè thơ ra mà tìm tư tưởng, tìm ý nghĩa thì đây là bài thơ Đầu Ngô mình Sở. Đã thế, tác giả còn tỏ ra vụng về, tỳ vết của sự thô vụng ấy nằm trong hai câu chẳng thơ tí nào, nó như câu văn xuôi bình giảng văn học của học sinh phổ thông: 
Hình ảnh kẻ chinh phu 
Trong lòng người cô phụ 
Ấy vậy mà khi gộp tất cả lại, nằm trong một tổng thể, bài thơ hay đến, lạ lùng, người ta không còn thấy dấu vết thô vụng đâu nữa. Đây là điều duy nhất xảy ra ở văn học Việt Nam và chỉ xảy ra có một lần. Cái hay của bài thơ này không nằm ở câu chữ. Nó hoàn toàn siêu thoát, là cái hồn phảng phất đâu đó đằng sau những con chứ rất sáng tỏ mà lại vời vợi mông lung kia. Người ta chỉ cảm thấy được, chứ không thể nói ra được một cách rạch ròi. Đây là bức tranh thiên nhiên được vẽ bằng hồn, bằng cả điệu nhạc rất riêng của tâm hồn thi sĩ.

Bởi thế, người đọc cũng phải dùng hồn để chiêm ngưỡng nó, chứ không thể ngắm nó bằng lý trí tỉnh táo. Đã không ít nhà phê bình nghiên cứu mang lý trí ra để làm con dao cùn mổ xẻ những con chữ rất ngơ ngác này. Có người còn viện đến cả thi pháp học để cố hiểu cho bằng được bài thơ, lấy thi pháp làm chìa khoá mở cánh cửa thực dụng, đi vào cõi mù mờ tâm linh này. Bằng cách vận dụng thi pháp, có người cho đây là bài thơ nói về nỗi cô đơn không có sự chia sẻ. Không phải ngẫu nhiên bài thơ có 9 câu mà đã có đến ba câu điệp Em không nghe: 
Em không nghe mùa thu 
Em không nghe rạo rực 
Em không nghe rừng thu... 
Em không nghe, còn anh thì nghe thấy hết. Nghe thấy hết mà không nói ra được. Đây là cuộc đối thoại mà kẻ đối thoại lại ẩn sau sự câm lặng. Hoặc giả em cũng đã nghe thấy, nhưng anh vẫn hỏi như vậy, nghĩa là anh không hiểu em. Đằng nào thì cũng vẫn cứ là thiếu niềm đồng cảm. Một bên thì thổn thức, rạo rực, kêu xào xạc, một bên thì không nghe, không nghe, không nghe, cả con nai ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô, nghĩa là nó cũng không nghe nôt. Hiểu một cách sống sít như thế thì thật thô thiển.

Nhà phê bình đã kéo những đám mây ngũ sắc đang bay bảng lảng trong không trung, rồi rải xuống đường làm rơm rạ lót chân, và như thế còn đâu cánh rừng thu, tâm hồn thu cho con nai vàng trú ngụ. Mấy câu điệp khúc ấy thực chất chỉ để tạo giai điệu rất đặc biệt cho bài thơ này. ở đây, nhạc điệu cũng là một phần nội dung chính làm nên hồn vía bài thơ. Còn ở góc độ khác, cũng nhìn bằng con mắt lý trí, có người còn cho rằng đây là bài thơ Lưu Trọng Lư thâu cóp của nước ngoài.

Thực tế trong bếp núc sáng tác, có thể có sự trùng hợp ngẫu nhiên. Người bình luận còn viện cớ rằng: Thực tế Việt Nam làm gì có khu rừng vàng. Đấy là rừng châu âu. Rừng Việt Nam là rừng luốm nhuốm. Mùa thu Việt Nam đúng như Nguyễn Du mô tả trong Kiều: Rừng thu rừng biếc chen hồng? Và con nai Việt Nam cũng nhanh nhẹn lắm, tinh ranh lắm, nó đâu có ngơ ngác? Ơ hay, Lưu Trọng Lư có nhìn thiên nhiên bằng con mắt thịt đâu!

Lại phải mời Hoài Thanh về làm luật sư bào chữa cho ông thôi: Trong thơ Lư, nếu có cả chim kêu, hoa nở, ta cũng chớ tin. Hay ta hãy tin rằng tiếng ấy, màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng. Lư không nghe thấy gì đâu. Sống ở thế kỷ 20, ngày ngày nện gót trên các con đường Hà Nội mà người cứ mơ màng thấy mìn gò ngựa ở những chốn xa xăm nào 

Tương truyền khi viết bài thơ này, Lưu Trọng Lư đến thăm nhà một người bạn. Rồi nhân cớ thấy cái bình gốm cổ có vẽ con nai đứng giữa núi non. Lưu Trọng Lư bèn vịnh ngay bài thơ này. Thực chất, nếu chuyện đó là thật, thì con nai trên bình gốm chỉ là cái cớ rất nhỏ, là tiếng động rất nhỏ đánh thức con nai vàng và khu rừng vàng trong tâm hồn Lưu Trọng Lư thức dậy và toả hương. Nhờ thế, thi ca Việt Nam đã có một kiệt tác thật hiếm có, ngỡ như đó là khúc nhạc huyền bí của thần linh, chứ quyết không phải là tiếng ca phàm tục của người đời...
Theo Trần Đăng Khoa