Ξ|Ξ   GIỚI THIỆU ::. NGỌC PHẢ; TỘC PHẢ; PHẢ ĐỒ .
Đăng ngày 6/11/2012
E-mail     Bản in

CÁC ĐIỀU CẦN NẮM KHI DỰNG GIA PHẢ
Trích giới thiệu các bài viết của một số tác giả có nghiên cứu về gia phả.
MỘT VÀI KINH NGHIỆM 

Lý do gì tôi có thể làm gia phả họ Đặng, gia phả bên chồng tôi. Thấy được lợi ích gia phả đối với dòng họ,  với sự nghiệp giáo dục, với lịch sử và đối với xã hội; mong muốn tìm về cội nguồn, tổ quán đã ấp ủ từ lâu. Đọc được bộ gia phả họ Đặng Bàu Sim, thấy chi của mình còn thiếu nên cảm thấy bùi ngùi, áy náy, do đó quyết tâm viết cho được gia phả họ Đặng Thúc Liêng thật hoàn chỉnh
Quá trình chuẩn bị:
Bước 1: Nghiên cứu gia phả đã có.
Bước 2: Sưu tầm và trích lục tư liệu của ông tôi là một nhân sĩ  yêu nước miền Nam ở các thư viên, thông tin trên sách, báo và ở dòng họ.
Bước 3: Nghiên cứu, sấp xếp tư liệu.
Bước 4: Ghi phả hệ.
Bước 5: Nghiên cứu cấu trúc bộ gia phả đã có: Mở đầu – chính phả có phả ký, phả hệ, phả đồ – ngoại phả và phụ khảo.
 
Bắt đầu viết: Viết phả hệ cho hết để nắm qui mô và một số đặc điểm dòng họ (nông dân, viên chức hay doanh nhân). Khi nắm được dòng họ rồi thì tìm tổ quán và viết phả ký. Phải đọc một số phả ký mẫu theo cách hướng dẫn. Viết bài mở đầu. Sắp xếp ngoại phả. Vẽ phả đồ.
Tôi xin trích nêu một số kinh nghiệm:
 
Kinh nghiệm “Tự viết gia phả”: Trước tiên phải viết phả hệ theo từng chi, viết hết chi nầy rồi tới chi khác để khi bà con xem được liên tục. Cần viết kỷ phả hệ để nắm toàn bộ qui mô, đặc điểm dòng họ qua lời kể của bà con. Ta sẽ thấy dòng họ nhỏ hay lớn, đông hay ít người, nhiều chi, nhiều đời không, tài sản, chức vụ thế nào, công nhân, nông dân, vên chức, doanh nhân? Viết phả hệ tức là ghi lại lý lịch, tiểu sử khái quát của nhân vật, quan hệ thế thứ của họ. Ghi lại hết những người trong gia đình,, tới con, cháu…Qua phả hệ, nhiều khi ta biết thêm bà con xa gần, mặt ưu, mặt khuyết từng người.
Trong gia phả Bàu Sim có ba chi. Chi 2 và Chi 3 gia phả trước đã viết, chỉ còn chi 1 là ngành trưởng là ông tôi là chưa có mà chúng tôi cần bổ khuyết: ông thứ 1 Đặng Văn Sơn, ông thứ 2 Đạng Văn Lộc và ông thứ 3 tên Đặng Văn Điểm. Như vậy, chi 1 là ông Đặng Văn Sơn, ông nầy sanh 1 người con là Đặng Văn Duy. Ông Duy sanh ba người con là ông Kim, ông Đặng Thúc Liêng và ông Tồn. Ba tiểu chi phát triển và ghi tiếp. Mỗi nhân vật đều ghi tiểu sử ngăn, gọn nhưng đầy đủ họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, năm mất, tại đâu, nghề nghiệp, học lực, sở thích.

“Kinh nghiệm viết phả ký”: Khi nắm được dòng họ rồi ta tìm tổ quán, hoặc qua lời kể của dòng họ hoặc qua trích lục tư liệu, hoặc qua giấy tờ…và bắt đầu làm dàn bài và viết phả ký. Phải đọc một số phả ký mẫu, viết phần nầy là khó nhất, không phả ký nào giống phả ký nào. Vì thông thương ta không biết dược ông bà  tổ  đời 1. Ta phải tranh thủ khai thác những người lớn tuổi, lắng nghe, cân nhắc. Trước khi viêt phả ký, tôi nghiên cứu lại phả hệ, đọc lại nhiều lần đồng thời nghiên cứu dàn bài của Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả.

Ông bà Tổ đầu tiên và Tổ quán.

Điều kiện nào thì ta làm gia phả được? Có hai điều kiện: biết được vị  tổ đầu tiên và biết được tổ quán. Vị tổ đầu tiên, là ông bà tổ đời 1., là vị nguyên tổ, thỉ (thủy) tổ, khởi tô, trong mối quan hệ tương đối,  mà người trong họ biết được hay trong sách sử, gia phả đề ra Tổ quán là nơi ông tổ đời 1 sinh sống lớn lên cưới vợ và sanh ra con cái. Có thể từ nơi nào đó tới khai cơ lập nghiệp. Dòng họ nào cũng có một ông bà khởi tổ, còn gọi là ông bà thỉ tổ. Trong một chi họ có một ông bà “đời 1”.

 Khảo cứu các thành viên trong một họ ta gọi là nghiên cứu về kỷ sự các thành viên đó. Kỷ sự, theo Hán – Việt Từ Điển của Dào Duy Anh là “sách ghi sự thật những sự việc”, có sách khác ghi: “Kể tiểu sử của một người, hay kể sự việc riêng tư hoặc có khi kể tiểu sử của nhiều người”. 

Về tiểu sử một người, ta nêu lý lịch người đó từ lúc nhỏ đến nay trong mối quan hệ với dòng họ, cha mẹ, anh em, với xóm ấp,lviệc học hành, lớn lên lao động, làm việc, tham gia cách mạng, chiến đấu. Nói về sở thích, tánh tình, lòng yêu thương mọi người.

Cần quan tâm ghi kỷ sự. hanh trạng, tiểu sử người nông dân với mối quan hệ của họ từ tuổi thiếu thời đến khi chết; với gia đình, lao động, ruộng vườn, là người có tay nghề truyền thống ta cần ghi cho rõ.

Việc viết về tổ quán có liên quan đén việc nghiên cứu địa chí xóm ấp là công việc của gia phả, ta chép về địa dư, phong tục, tập quán, nhân vật, sản vật hoặc địa lý,địa lý lịch sử, văn hóa của xóm ấp; Nói địa phương, tổ quán ấy tác động hình thành nếp sống, thái độ một người và nói người đó đã có những hành động, việc làm gì đối với quê hương xứ sở. Cần  mô tả đình, chùa, bến, chợ ở xóm quê ấy.

Đi điền dã và tiếp xúc với dòng họ 
Viết sử về dòng họ là phải đi tới dòng họ đó, đây là một kinh nghiệm, một nguyên tắc. Có những công việc cơ bản phải làm: gặp những người am hiểu, những người lớn tuổi để hỏi; hỏi để ghi chép đầy đủ khung nhân sự, hỏi hành trạng, tiểu sử càng nhiều người càng tốt, hỏi thứ tự các con, hỏi kỷ niệm của họ đối với một vài người nổi bật, hỏi nội dung, hình thức các ngày giỗ chạp; quan sát bàn thờ tổ tiên, mô tả cách chưng bày thờ phượng, sao chụp hình ảnh, bằng, giấy tờ; đất đai, nhà cửa rộng, hẹp…
Ta phải chuẩn bị nội dung, cách phỏng vấn.
Quan sát mồ mả, theo cách gọi khác nhau giữa ba miền Nam Trung Bắc về khu mộ, hướng quay đầu khi chôn người Việt, người Tiều khác nhau; ghi tên tuổi, năm sanh năm mất trên mộ bia để đối chiếu; gặp chữ Hán, phải dịch ra Quóc ngữ, chụp hình người, mồ mả, nhà cửa…
Gặp những bà dâu, những người phụ nữ, chú ý hỏi kỷ thân phận người phụ nữ trong gia đình. Những bà dâu thường nói những chuyện đặc sắc. Chú ý loại bỏ khuynh hướng đề cao quá mức, những điểm phi lý, mê tín…Phải đi và truy tìm không phải một lần, song sắp xếp kế hoạch đi càng tỉ mỉ thì việc ít tốn công đi lại, đó là kinh nghiệm.

Việc nhận họ 
Ta dựng phả thường là cho từng chi họ. Họ Nguyễn, thực tế là chi họ Nguyễn đó, cha mẹ của ông tổ đời 1 là ai, từ đâu (chi họ miền Nam thường nói “ở miền ngoài, ở Ngũ Quảng vô”). Nếu tìm được gia phả cổ có ghi rõ: từ “Bao Lầy, phủ Tư Nghĩa”hoặc ghi rõ hơn: thôn ấp, làng xã, huyện nào là ta có thể truy tìm được.
Việc thứ hai là phải ra tới ngoài đó, tìm cho được, thí dụ họ Nguyễn nói trên, hỏi trong họ, trong gia phả (cổ) có ai tên nầy vào Nam và sau cùng ra khu mộ để đọc mộ bia, thẩm tra một số tên người chôn. Phải thẩm tra từ hai phía, từ tổ quán trong nầy và từ nguyên quán ngoài kia, nếu khớp là phải. Có trường hợp ta dựa vào sách sử để kết nối, nếu sách sử chỉ rõ ở hai nơi một cách cụ thể, chính xác. (Trường hợp các dòng họ họp nhứt hiện nay ở các nơi, phải chú ý công việc truy tìm, nhân họ – trước hết phải ghi lại gia phả của chi mình).

Ta còn có việc đổi ngày âm lịch ra dương lịch, cách đổi, đề nghị tra theo sách; công thức truy năm sinh của ông tổ, các chức tước từ các đời vua, học vị ngày xưa; việc xây dựng nhà từ đường, những việc tra cứu từ đinh bạ, địa bạ, lục sổ bộ đời ở Nam bộ. Tất cả là phải tiếp cận với kho lưu trử, thư viện.

Trần Thị Kim Xuyến
 
DỰNG GIA PHẢ CẦN GÌ Ở HÁN - NÔM?
Như ta biết chữ Hán - Nôm hình thành và sử dụng từ lâu trên đất nước ta. Còn chữ Quốc ngữ mới phổ biến hơn trăm năm nay. Nhưng chữ Hán - Nôm đã mai một theo thời gian, chỉ còn trong các kho lưu trữ, đình, chùa, các nhà từ đường, các bằng, sắc, bài vị, mộ bia, các gia phả chữ Hán.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu biết Hán - Nôm dần dần ít đi, có trường hợp “người dốt hay nói chữ”, đọc giải thích sai chệch, gây ngộ nhận.

Trong phần việc dựng gia phả có liên quan tới Hán – Nôm: Gia phả, phủ ý viết bằng chữ Hán, bài vị (thần chủ) để ở từ đường, mộ bia chữ Hán khắc trên đá. Theo tập quán, người Việt thường hay dùng chữ Nôm, mà chữ Nôm đọc dễ lầm lẫn chữ nọ thành chữ kia, cho nên phải có sự hợp tác chặt chẽ với người tại chỗ để nhận ra cách phát âm của họ. Biết chữ Hán - Nôm thì cũng đọc được liễn, đối, khám phá được các loại văn tự, khế ước, khoán ước, bút tích cổ xưa bằng Hán - Nôm.
Bài vị, đóng bằng gỗ quí, chạm trổ hoa mỹ, đặt trên bàn thờ, nội dung thí dụ:
Hàng giữa: Đại Nam hiển khảo (tỷ), nguyên hương cả,  đệ tứ hàng chi linh vị tánh Nguyễn húy Phước đệ tứ hàng chi linh vị.
Hàng phải: Ngươn sanh giáp tý niên  
Hàng  trái: Tối ư Quý Hợi niên ngũ nguyệt thập lục nhựt, ngọ thời. Hiếu tử Nguyễn Văn Lộc, lập thạch. 

● Bài vị: Khi người lớn tuổi qua đời, trong tang lễ người ta lập ngay một bài vị để trên bàn vong và được thờ trong suốt quá trình tang lễ, cho tới ngày đại tường. Theo tục lệ thì “ngũ đại mai thần chủ”, thì đưa vào giỗ tại nhà thờ tộc. Những bài vị xưa ta còn thấy là do gia đình gởi hậu vào chùa như những lọ cốt, nếu gia đình có nhà từ đường thì đưa vào đây là tốt nhất.

● Mộ bia:  Hiện nay, đa số mộ bia ghi bằng chữ Việt dễ đọc, dể hiểu nhưng những mộ bia cổ, chữ Hán, nay làm mới ghi chữ Việt dễ bị sai lệch.. Nội dung giống như bài vị nói trên, hàng dưới cùng thì ghi:Nội tôn Nguyễn Văn A, Văn B đồng lập tạch 

Bài vị, mộ bia giúp ích cho ta rất nhiều trong việc dựng phả, trong đó tên tuổi, năm sinh, ngày mất, chức vụ lúc sinh thời, tên gọi làng thôn xưa đều ghi rõ. Trong khi dựng phả, chúng tôi đã làm sáng tỏ, hiệu đính, sửa sai rất nhiều cho bà con do không hiểu chữ Hán-Nôm.
Chú ý có mấy trường hợp thường đọc sai: tên bằng chữ Nôm, Rạch Kè thành Rạch Cờ, Bến Nẩy thành Bến Nái, Bến Lầy, Ba Cụm thành Ba Chòm. Tên dân gia dịch ngược ra âm Hán: Bến Nghé thành Ngưu Chữ. Cách chấm câu bị hiểu sai, nhìn lầm mặt chữ, theo phép viết chữ Hán – Nôm.      

                                                                    VÕ VĂN SỔ


LỊCH SỬ NAM TIẾN VÀ NHỮNG CUỘC DI DÂN
-          Từ năm 2897 đến năm 2875 trước Công nguyên: nước Văn Lang, họ Hồng Bàng rồi Âu Lạc. Triệu Đà chiếm, khởi đầu Bắc thuộc.
-          Từ năm 76 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ 10: Ngô Quyền, 12 Sứ quân, đến triều Đinh (968 – 980), thời kỳ độc lập tự chủ, ranh giới phía Nam giáp Châu Hoan, Hà Tĩnh nay.
-          Năm 992 Lê Đại Hành huy động 3 vạn người vào huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tỉnh, đến châu  Địa Lý của Chiêm. Đây là đường bộ đầu tiên khai thông Bắc - Nam.
-          Năm 1069, vua Lý Thánh Tông vào đánh Chiêm Thành, Chế Củ bị bắt, xin nộp ba châu Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh. Châu Bố Chánh là Nam-Bắc sông Gianh, Quảng Bình nay. Châu Địa Lý nằm giữa Quảng Bình, nay là Lệ Thủy. Châu Ma Linh nằm ở miền Bắc Quảng Trị, nay là Minh Linh, Gio Linh. Liền sau đó vua xuống chiếu chiêu mộ dân vào ở. Hưởng ứng, nhân dân  Nghệ An vào thành họ tộc, lập các xóm thôn như Phan xá, Hoàng xá, Ngô xá, Vũ xá…(xin xem thêm sách “Ô Châu cận lục”)
-          Thời thuộc Minh, từ năm 1407, đất Chiêm Động và Cổ Lủy lại vể lại  với Chiêm Thành, do nhà Minh quản lý.
      Từ 1418 đến 1425, Lê Lợi chiếm lại Thuận Hóa. Châu huyện vẫn gọi như trước, nhưng biên cương vẫn không yên ổn.
-          Năm 1471, vua Lê Thánh Tông quyết định thân chinh tiến đánh, vây hảm thành Trà Bàn (Đồ Bàn), bắt sống Trà Toàn và chiếm đất đến Thạch Bi Sơn, đặt ra phủ Hoài Nhơn. Vùng đất mới chiếm nầy đặt tên mới là Thừa Tuyên Quảng Nam, trong đó có ba phủ, phủ Hoài Nhơn có ba huyện là  Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Năm 1490, đổi Thừa Tuyên thành xứ.
-          Ngoài việc đất Quảng Bình (Châu Bố Chính) di dân theo kiểu họ tộc, trong huyện Khang Lộc có 72 làng Mai Xá, Chu  Xá, Lỗ Xá, Phan Xá, Bùi Xá, Trương Xá; ở Châu Minh Linh có 65 làng. Số quan quân đi đánh Chiêm cũng được phép ở lại. Lại khuyến khích dân Nghệ An thạo nghề sông biển, dùng thuyền vào khai thác Hòai Nhơn. Đặc biệt lại đưa phần tử tù nhân bị lưu đày, chia làm 3 bậc đi 3 nơi: lưu cận châu đi Nghê An, Hà tỉnh; lưu ngoại châu, đi Châu Bố Chánh; lưu viễn châu đi Quảng Bình
-          Từ  năm 1474, có đất Thăng Hoa, việc lưu đày được sửa đổi: lưu cận châu, đi Thăng Hoa; lưu ngoại châu đi Tư Nghĩa; lưu viễn châu, đi Hoài Nhơn.
-          Cuộc di dân thời Lê là quan trọng, người Chăm không chỗ lùi phải sống chung với người Việt, cuộc sống của dân mới yên ổn làm ăn.
-          Từ năm 1558 - 1613, Nguyễn Hoàng  theo sấm Trạng Trình: “Hoành sơn nhất đái vạn đâi dung thân” đã vào Thuận Hóa.
-          Khi Đoan quận công vào xây thành Ái Tử,  đoàn tùy tùng theo ông khá đông, gồm những nhà quyền quý ở Tống Sơn, nghĩa dõng ở Thanh Hóa, Nghệ An và khá đông kiến họ ngoại của Chúa cũng theo vào.
-          Nguyễn Hoàng đánh nhau với tướng nhà Mạc là Lập Bạo. Lập Bạo bị giết, quân sĩ đầu hàng, Chúa cho ở lại đất Cồn Tiên lập lên 36 phường.
-          Năm 1611, quân Chiêm Thành ra đánh biên giới Hoài Nhơn, Chúa đem binh đánh trả, chiếm luôn đất Phú Yên, lập hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa.
-          Năm 1648 - 1687 Nguyễn Phúc Tần, chiến tranh Trịnh - Nguyễn nổ ra, trong 46 năm 7 lần đánh nhau, lần thứ 5, quân Nguyễn đánh ra chiếm 7 huyện của Nghệ An suốt 5 năm, khi rút về dắt theo 3 vạn quân dân đàng ngoài, đưa vào an trí khai hoang vùng Quảng Nam cho đến Phú Yên. Lần nầy có họ Hồ ở Hưng Nguyên (Nghệ An) đưa vào An Khê. Đây là Tổ tiên của ba anh em nhà Tây Sơn.
-          Năm 1672, Trịnh Nguyễn đánh nhau lần cuối, không phân thắng bại, hai bên lấy sông Gianh làm giới tuyến, từ đó Nam Hà tách khỏi ảnh hưởng nhà Lê, hình thành một trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế mới là Tri Thiên – Huế.
-          Từ năm 1691 – 1725, chúa Nguyễn Phúc Chu 3 lần mở rộng lảnh thổ về phía Nam:
      1. Năm 1693 lấy nốt đất Phan Rang, Phan Thiết của Chiêm Thành.
      2.  Năm 1698, họp thức hóa hai vùng Đồng Nai và Bến Nghé của Thủy Chân Lạp, lâp ra Gia Định, với hai huyện Phước Long và Tân Bình và di dân miền Ngũ Quảng vào khai thác. Đó là vùng đất miền Đông Nam bô ngày nay. 
      3.  Năm 1714, tiếp nhận vùng đất Hà Tiên do Mạc Cửu dâng cho chúa Nguyễn, gồm An Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.
-          Sau đó, Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh can thiệp vào cuộc động binh giữa Xiêm La, Cao Miên và họ Mạc Cửu ở Hà Tiên, để tiếp quản nốt vùng  Tầm Đôn- Lôi Lạp - Tầm Phong Long vào bản đồ Việt Nam.
-          Trong những lần vào Nam, Tây sơn bỏ ngũ lại, Nguyễn Ánh lên ngôi đã hợp thức hóa cho số người nầy, tiếp đó là tiếp nhận số “phản Thanh phục Minh”
-          Năm 1954,  Nam bộ có thêm dân miền Bắc di cư.
-          Sau năm 1975 số cán bộ, chiến sĩ; số người thiên cư từ miền Bắc vào khá đông.

                                                             VÕ VĂN SỔ
                                    Tập hợp từ các tư liệu lịch sử
 
PHẦN SÁU

SỰ NGHIỆP DỰNG GIA PHẢ CHO CÁC DÒNG HỌ 
LÀ THIÊNG LIÊNG VÀ KHOA HỌC 


Có một sự nghiệp mới mẽ và hấp dẫn:
Dựng gia phả cho các chi họdòng họ Việt Nam
Tù truớc tới nay, việc dựng phả chỉ do từ một hoặc hai nhân vật có học trong dòng họ đứng ra làm. Đây là lần đầu tiên, một Trung tâm chuyên về việc dựng phả cho các dòng họ ra dời và tổ chức triển khai công việc với nhiều tâm huyết. “Nghiên cứu gia phả là khoa học, thực hành gia phả là thiêng liêng” đã trở thành phương châm cao đẹp của một trung tâm.
Tôn thờ tổ tiên là để ‘vĩnh tồn tôn thống’, là một niềm tín, một tín ngưỡng – tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên, gắn với tâm linh, với vận mệnh của dòng họ và của đất nước. Dòng họ có từ xa xưa trong lịch sử, và phát triễn cho tới vô cùng về sau, với những con người và sự việc cùng một ông tổ, theo qui luật hôn nhân và di truyền, tiếp nối, kế tục, phát huy truyền thống văn hóa, truyền thống lao dộng, chiến đấu, bảo vệ đất nước, cùng với các dòng họ khác mà ta gọi là đồng bào, để xây dựng cuộc sinh tồn mãi mãi về sau..
Mục tiêu của Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả Tp. Hồ Chí Minh là:
-          Phục hồi ngành gia phả Việt Nam,
-          Dựng phả cho các dòng họ.
Gia phả Việt Nam có lịch sử gần ngàn năm, không kể giai đọan huyền phả - giai đọan có phả, đánh dấu bởi quyển phả đầu tiên là bộ “Hòang Triều Ngọc Điệp”, đời Lý Thái Tổ, năm 1026, tới giai đọan phát triển các đời vua sau đó Lý, Lê, Trần, Trịnh, Nguyễn, cho đến gần cuối nhà Nguyễn, khi các khoa thi chữ Hán chấm dứt (1919), thì môn gia phả cũng suy sụp theo. 

Ngày nay, đất nước đổi mới, chúng ta kêu gọi “phục hồi ngành gia phả”, để “giữ gìn bản sắc dân tộc”, “về lại với cội nguồn”, là cách xử sự đúng đắn và hợp lý. Chúng ta có dự kiến dựng ở mỗi xã, ấp một bộ gia phả để làm mẫu, bà con dòng họ có thể theo đó bắt chước làm theo.
Muốn phục hồi một sự nghiệp, là phải bắt tay vào công việc một cách cụ thể, thiết thực: đó là việc dựng phả cho các chi họ. Mục tiêu và các bước đi, trải nghiệm qua mười mấy năm trong thực tế, đã chỉ ra việc dựng phả cho các dòng họ là rất đúng đắn, các dòng họ hoàn toàn ủng hộ; các nhà khoa học nhiệt tình giúp ý kiến, động viên; các cơ quan quản lý nhìn nhận từng bước.

Tuy nhiên phải hiểu ngay vấn đề là không phải chỉ một đơn vị tiến hành một cách đơn độc, mà Trung tâm phải được xã hội đồng thuận, cùng hưởng ứng, đề ra những loại công việc, để những nhà chuyên môn cùng làm, để mọi gia đình cùng làm v.v. Chúng ta rất phấn khởi, các dòng họ như họ Phan, họ Vũ/Võ, họ Nguyễn, họ Bùi, họ Đào, họ Trần, họ Lê…, lần lượt cùng hội kết với nhau, tạo thành những Ban liên lạc họ tộc, đã tìm về, qui tụ lại với qui mô cả nước, hoặc từng tỉnh, thành phô, có nơi tới huyện, xã; đã hấp thu cả người Việt ở nước ngòai và có những chuơng trình xây dựng dòng họ, dựng nhà thờ tổ, xuất bản sách về dòng họ, đã thể hiện yêu cầu to lớn là dựng các bộ gia phả cho các chi họ của mình. Họ đang bắt tay vào, hoặc nhờ đến Trung tâm dựng phả cho họ, và tốt đẹp thay ở hoàn cảnh và các điều kiện xa gần khác nhau như thế nào, họ tộc phức tạp như thế nào, chúng ta cũng đáp ứng họ một cách hoàn hảo!

Thành lập và họat động của Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả 
Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả xuất phát từ thành phố Hồ Chí Minh, nơi hầu hết các họat đông kinh tế, văn hóa là rất phong phú, đa dạng, năng động và sáng tạo. Việc thành lập Trung tâm Gia phả cũng là điều mới. Nông dân ta đã được giải phóng, tự do, làm chủ thì trong đó cũng phải có quyền hoàn toàn nắm biết về lịch sử dòng họ mình, tức phải có gia phả.
Từ năm 1992 đến nay được 16 năm, ban đầu với danh xưng  là “Nhóm gia phả” mà bây giờ là Trung tâm gia phả ra đời. Ba vị: Giáo sư Mạc Đường, nhà nghiên cứu gia phả Dã Lan Nguyễn Đức Dụ và nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu chịu đứng ra làm Ban cố vấn, đã cho ý kiến thấu đáo, chính xác về đường hướng và phương pháp dựng phả. Khởi sự là khó khăn, xác định mục tiêu, xem như cương lĩnh của nhóm là đúng; cấu trúc, bố cục bộ gia phả là đúng; cách viết phả ký là phức tạp, phả hệ dựng ngang hay dựng dọc, ngoại phả và phụ khảo phân định như thế nào…là những vấn đề tiên quyết cho các bước về sau.
Đi vào thực hiện, Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả đã có những bước đi đúng. Cách đi vào dân, đi tìm hiểu thực tế ở các dòng họ, cách tiếp cận, bắt mối với những người am hiểu trong họ, cách hỏi – phỏng vấn và ghi chép, chụp ảnh, tiếp nhận tư liệu, vừa là kỹ năng, vừa là nghệ thuật, ghi như thế nào là chi tiết, đầy đủ, không phải đi lại một vòng nữa.
Các chuyên viên đi làm, phải vận dụng rất nhiều năng lực, họ phải vào các kho lưu trữ, thư viện để có thêm tư liệu.
Các bộ sách hoặc tài liệu lưu trữ như địa bạ, sổ bộ đời, các lần di dân trong lịch sử, là những tài liệu quý giá.

Trong 16 năm, Trung tâm đã dựng tổng cộng 90 bộ gia phả cho các chi họ, phần lớn là ở phía Nam, cũng có những bộ ở miền Trung và miền Bắc. Đây là những tác phẩm với kỳ công của nó.
Có trường hợp đi xa như đi thực hiện bộ gia phả Phạm Duy ở Quảng Trị, ở đây ta mới ghi nhận và phản ánh đuợc tổ quán, mồ mả, nhà thờ họ, bến sông, đường làng, đình, miếu, chợ một cách giản đơn…, Việc bắt được nhịp sống, cách sống của dòng họ và các dòng họ cùng sống chung từ xưa tới nay là phải kiên trì. Làm sử cho dòng họ là phải tới tận quê (tổ quán) của dòng họ đó, phải quan sát, phân tích, tổng hợp, ghi chép, đúc kết và nâng lên theo một giọng văn, cách viết sử gãy gọn, chững chạc, đầy đủ, luôn là ước muốn của Trung tâm.
Chúng ta có một đội ngũ làm công việc dựng phả, đến nay xem là có tay nghề tương đối vững vàng, tự dựng một bộ gia phả hòan chỉnh, với tư cách là nhà nghiên cứu trung thực, khách quan, tận tụy vì công việc. Tuy nhiên ta vẫn thấy là mình phải cần rèn luyện nhiều hơn nữa, nhứt là về phẩm chất của người nghiên cứu.
Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả hình thành hai tổ chức song hành: một, Chi hội Nghiên cứu và Thực hành gia phả & hồi ký, là những người có đủ năng lực được Trung tâm giới thiệu tham gia vào Hội Nghiên cứu Khoa học và Lịch sử TP.HCM; hai, Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành gia phả & hồi ký, là tòan bộ những thành viên của Trung tâm hiện nay, họ họat động với sự chọn lọc và được mời vào Trung tâm, hoạt động theo cơ chế nhận việc, báo cáo kết quả công việc để được nhận xét, đánh giá con người. 

Nói chung, chất luợng các bộ gia phả là khởi sắc hẳn lên, từ các phần trong mỗi đoạn, như phần về đặc điểm tính chất ưu việt mỗi dòng họ, phương hướng xây dựng dòng họ văn hóa (trong phần phả ký), xuất phát từ quan điểm nhận định, với tính khái quát rất cao: “dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng” do Bác Hồ đã chỉ ra, thì mỗi dòng họ ở đấy có những đặc điểm ưu việt nào; về hành trạng, công tích của những thành viên trong gia phả, thí dụ chúng ta đã biết chắc cụ Nguyễn Văn Ruộng, người làm thủy lợi, sử dụng xáng thổi để làm kinh An Hạ, Củ Chi, cách đây 100 năm…
Hai loại hình tổ chức nêu trên, gắn liền nhau, tức là thế và lực bổ sung cho nhau, tính uyển chuyển và tính chặt chẽ đều phát huy tác dụng.

Những điều gì chúng ta có thể rút ra được
để phát huy và những mặt nào còn hạn chế? 

1. Trước hết phải nhận thức đúng đắn và đầy đủ vai trò, vị trí và nội dung dòng họ, gia đình:
Gia đình – dòng họ là đối tương của gia phả. GĐDH có trước, gia phả có sau. Nội dung của GĐDH nhứt định sẽ được phản ánh qua gia phả. Ta hiểu một dòng họ càng sâu sắc thì nội dung của gia phả đó sẽ chi tiết, tỉ mỉ, toàn diện.
Chúng ta cho rằng có lịch sử GĐDH, đồng thời cũng có văn hóa GĐDH. Cả dân tộc Việt Nam là một đại gia đình vì “cùng một mẹ sinh ra”. Do quan hệ hôn nhơn, cha và mẹ cưới nhau, gặp nhau đẻ ra con cái và lập thành một gia đình. Nhiều gia đình, theo qui luật di truyền, cùng một ông/bà tổ, cùng huyết thống - thành  một dòng họ.
Gia đình hạt nhân truyền thống Việt Nam không chỉ dựa vào tình yêu vợ chồng không thôi, mà trước hết xác định vai trò của cha và mẹ, là người nuôi nấng, dạy dỗ con từ thơ ấu, lớn lên dựng vợ, gả chồng, cho ra riêng, lập nghiệp với cả khả năng và tình yêu thương vô bờ của mình. Dựng phả, ta chú ý đến gia tư, gia bản của họ. Phải có của riêng mới thành nhà, là của chung của vợ chồng, “của chồng - công vợ” là thiêng liêng và là một chân lý. Nhưng vợ phải có quyền nhiều hơn, tuy người Việt Nam không có thói quen “của anh anh mang, của nàng nàng xách”, mà là: Một trăm chìa khóa em đeo, việc giang san anh gánh, sự đói nghèo mặc em.
Phải chú ý, nhìn sâu đến gia thất, gia đường, đến nhà trong của người ta. Cái nhà không chưa đủ, phải có cái buồng kín cho việc riêng tư vợ chồng, nếp nhà là như vậy.
Đường cũng là nhà song nó thiêng liêng hơn.
Làm suôi, tiếp bạn quí là tiếp giữa gia đường vì chỗ trang nghiêm, có bàn thờ gia tiên, chứng tỏ là gia đình có trên có dưới; có gia đạo, gia  lễ, gia pháp, gia phạm, câu chuyện đằm thắm và luôn chín chắn.

Định nghĩa gia đình Việt Nam:
-          Là tổ chức cơ sở với những người cùng huyết thống và nghĩa tình (có chàng rễ, cô dâu) liên kết lại với nhau;
-          Là một tổ ấm cả về tinh thần lẫn vật chất cho những người sống trong đó. Ông Boutros Ghali, tổng thư ký LHQ nêu: “Gia đình là nơi ẩn náo của sự yên ổn, sự kính trọng và tình thương”
-          Nó có chức năng lớn nhứt là giáo dục;
-          Là một trong những nơi tạo ra của cải vật chất để nuôi sống người trong gia đình;
-          Là nơi sinh con đẻ cái;
-          Là nơi sản sinh và duy trì văn hóa dân tộc. 

Lịch sử dòng họ là sự đúc kết từ lịch sử gia đình. Điều mà khi ta làm gia phả đã từng nêu và nay cũng là một hướng để nghiên cứu dòng họ. Định vị, phân giai đọan cho các thời kỳ của gia đình là khó. Từ lúc chế độ quần hôn tan rã, hình thành chế độ thị tộc, một vợ một chồng, với Lạc Long Quân – Âu Cơ, chuyển từ mẫu hệ sang phụ hệ, nhà nước Văn Lang, với 18 đời vua Hùng và dòng họ ra đời. Lúc khởi đầu, người Việt Nam ta có lẽ chỉ biết có mẹ, như Mẹ Âu Cơ mà không biết có cha. Lê Hòan, Lý Công Uẩn tìm ra người cha cũng chưa có, mãi mấy thế kỷ sau, sách Lĩnh Nam Trích Quái kể khi dân chúng bị thủy quái phá hại, mới gọi Lạc Long Quân, Bố ơi! Về cứu chúng con.
Phùng Hưng được dân gọi là Bố cái Đại vương.  
Thời Hùng Vương có tự do kết hôn, như Sơn Tinh – Ngọc Hoa, Chữ Đồng Tử - Tiên Dung. Thời An Dương vương có Trọng Thủy ở rể, có Lỗ Quốc đổi họ ra họ Võ của Võ Trung.
Họ (của dòng họ) có lẽ họ có từ khi nầy?
Từ thế kỷ thứ XV, việc xác lập xã hội phong kiến, tôn sùng Nho giáo, thì gia đình Việt Nam bắt đầu ổn định, việc tu thân, tề gia, xây dựng gia đình theo khuôn phép được coi như một mẫu ngàn đời.
Từ cuối thế kỷ thứ XIX đến cách mạng tháng Tám, gia đình có nhiều thay đổi. Nước mất, quyền lực gia đình cũng sa sút; lại xuất hiện những loại gia đình mới: gia đình làm việc với chính quyền thực dân, gia đình tiểu tư sản.
Với các nghề mới, con cái được đi học, du học chữ Tây, chữ Quốc ngữ; làm quan, hình thành người theo tân học, làm thầy thông, thầy phán,“phi cao đẳng bất thành phu phụ” ... gia phong, gia lễ, kỷ luật gia đình xáo trộn.
Thế kỷ thứ XX, phong trào Âu hóa phát triển, báo chí lúc ấy kêu gọi “phong hóa”, đòi “giải phóng phụ nũ”, có người còn đòi “thủ tiêu gia đình”, như Phan Văn Hùm: “Tôi quả quyết rằng xã hội không cần gia đình, gia đình là cái biểu chứng ngăn sự tiến bộ của xã hội…”; các quan điểm chứa đựng trong đề tài sách gia đình, của Tự Lực Văn Đoàn. Trong đó vấn đề giải phóng phụ nữ, trở thành sự quan tâm chung, song dưới sự thống trị của thực dân thì chẳng đổi thay được gì! Đến thời Pétain lên cầm quyền, đổi khẩu hiệu, từ “Bình đẳng – Tự do – Bác ái” sang “Cần lao – Gia đình – Tổ quốc”. Gia đình, có người cổ súy cho nó song cũng chẳng ảnh hưởng bao nhiêu.

Cách mạng tháng Tám trở đi, nhất là thời kỳ đất nước bị chia làm hai miền, ta không có thời gian bàn về gia đình, song tự nó đã có những sụ biến đổi quan trọng. Các loại gia đình (miền Bắc) được thay thế bằng kiểu gia đình nông dân – xã viên và gia dình cán bộ, đặc biệt vấn đề giải phóng phụ nữ nổi bật lên.
Sự đòi hỏi của kháng chiến, của nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội yêu cầu thanh niên phải xuất hiện với vai trò của mình, gia đình gần như phải chịu sự sắp xếp lại. Nông dân là xã viên không chịu tô tức, cống nạp, mọi người làm chung và chia sản phẩn, đời sống không cao nhưng không ai bị đói. Tuy vậy, ở các lọai gia đình nầy đã bộc lộ nhiều khuyết nhược điểm. Gia đình cán bộ sống bằng lương, có nhà cửa song thường lụp xụp. Gia đình cán bộ có ít nhà lập bàn thờ tổ tiên, ít quan tâm những việc thiết yếu của gia đình, việc dạy dỗ con cái, cho con học nhiều lớp, chạy thi thì phổ biến; tìm việc làm thêm, nhận gia công, buôn bán, thường bị phê bình.
Khía cạnh khác, cán bộ đảng viên cũng cam nhận tình trạng phá bỏ đình chùa, giải tỏa mồ mả bất họp lý, măc dầu hết sức đau lòng; các bộ gia phả cổ bị hủy họai, liên hệ họ hàng phải đề phòng, cán bộ có người dấu nhẹm lý lịch, giỗ tổ tiên ít người nhớ. Do đó vai trò của gia đình như xây dựng tổ ấm, hoàn thiện chúc năng giáo dục gia đình v..v  đang cựa quậy, âm ỉ tìm đuờng ra.
Mặt khác, gia đình xã viên, cán bộ cũng đã để lại ho chúng ta những tấm gương sáng với hàng vạn bà mẹ, bà vợ tiêu biểu, gương mẫu; hàng triêu thanh niên chiến đấu, anh dũng, hy sinh… Nhờ đâu có những tấm gương đó? Nhờ đức tính của người Việt Nam, nhờ tình yêu  dân tộc, lòng yêu nước; nhờ kết quả của truyền thống gia đình, do tâm thức vững bền trong mỗi con người Việt Nam.

Ở miền Nam, chế độ thực dân mới, nửa phong kiến và sự nghiệp giải phóng dân tộc của chúng ta, đã tạo ra hoặc tác động vào dòng họ - gia đình những yếu tố và tạo ra các loại gia đình thế nào?
Phe địch cố gắng hành xử, duy trì các lọai gia đình – dòng họ theo kiểu một phần phong kiến, một phần tư bản, Pháp, Mỹ; cũng có những người theo kiểu truyền thống.
Ta cố tuyên truyền và thực hiện đời sống mới, nếp sống mới. Cuộc đấu tranh khá quyết liệt.
Ở nông thôn, nông dân, những gia đình dồn sức cho cuộc chiến đấu bám đất giữ làng, tòng quân diệt giặc, mặc khác vẫn duy trì các hình thức tang tế, hôn nhơn truyền thống; các lễ chùa, đình đám thì tạm gác lại. Mê tín dị đoan giảm hẳn, có nơi ăn đủa hai đầu, ca hát tập thể, họ tin rằng phải xây dựng đời sống mới, để góp phần cải tạo đời sống.
Tình yêu bền chặt, chờ đợi chồng đi tập kết, những gương chiến đấu anh dũng hy sinh là nhiều vô kể, tất cả những điều đó đều có mối dây từ sự hun đúc, giáo dục truyền thống ở mỗi gia đình.
Ở các thành thị, có các cuộc vận động văn hóa dân tộc, phụ nữ đòi quyền sống, chống văn hóa phản động, đồi trụy, lai căng. Tuy vậy, một số gia đình cũng bị xâm hại tha hóa, mất chất
Ngày nay, đất nước ta là một, Đảng, Nhà nước và nhân dân cùng chung lo xây dựng gia đình - dòng họ văn hóa, xây dựng đất nước thành một khối “dân giàu, nươc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Ủy ban quốc gia UNESCO VIỆT NAM tổ chức hội nghị “Gia đình và sự phát triển kinh tế xã hội”.
Ngày 22 và 23 tháng 8 năm 1996, Nhà nước ta tổ chức hội nghị tổng kết công tác gia đình văn hóa ở phía Bắc. Báo chí đã đề cập. Các tỉnh, thành phố ra quyết định công nhận các Hội đồng gia tộc, người dân đã qui tụ, nhận họ, lập nhà thờ tổ, lập gia phả, tổ chức khuyến học, khuyến nghiệp, khuyến tài như đã nêu.

Yếu tố tâm linh trong dòng họ. Ta quan tâm đến phần sâu kín hơn trong tâm hồn con nguời, tiếp cận tới những gì thiêng liêng, huyền ảo, thiết thực, cụ thể nhưng khó chứng minh bằng khoa học hiện thời. Song trong thực tế đó là điều đang có trong nhân dân mà ta phải tôn trọng, hiểu, phải giải thích. 

      Việc thờ cúng trong gia đình - dòng họ. Mục đích của việc thờ cúng là tín ngưỡng, là văn hóa dân tộc, là thể hiện tâm lý “chết là thể phách còn là tinh anh”, chết cũng như còn, để vĩnh truyền tôn thống, là quan niệm của dân Việt Nam, như đã nêu.
Việc cúng bái là chữ hiếu, bao gồm “sống nuôi dưỡng tử tế, chết tôn thờ nghiêm túc”, đây cũng là dịp con cháu tề tựu đông đủ, mỗi năm một lần nhắc nhở công tích người chết giỗ, đồng thời cũng là dịp ăn uống, bồi dưỡng sức lao động.
Có đám giỗ tổ (giỗ hội) ở nhà từ đường, cũng có đám giỗ bình thường ở mỗi gia đình có thờ phượng từ ông bà sơ trở xuống. Trong lễ giỗ, ở bàn thờ gia tiên có nhang đèn, vật phẩm cúng tùy từng họ, có nơi cúng với hình thưc “việc lề” như ở Nam bộ, lễ cúng có khấn vái.
Văn khấn nêu rõ người được cúng là ai, con cháu là ai cúng, vật cúng là gì, song phần đặc biệt là lời cầu nguyên vong linh người chết hãy về độ trì, phù hộ cho con cháu, hậu duệ phúc đúc, tai qua nạn khỏi, làm ăn phát đạt, công tác trọn vẹn. Lời cầu nguyện, van vái đó, dân ta tin rằng nó được tổ tiên chứng giám và sẵn lòng độ trì, chấp thuận.

Nhiều dòng họ đang cùng nhau xây dựng nhà từ đường của họ. Đây là nét văn hóa khác ta hãy quan tâm: xây dựng tôn nghiêm, tiết kiệm; kiểu cổ, kiểu tân là tùy nhưng phải có bài vị những bậc tiên tổ để chỗ tôn nghiêm, có lư nhang, chưn đèn.
Sách về nhà thờ tổ của các chi họ Hồ Việt Nam phát hành, đăng hầu hết các nhà thờ tổ của họ từ Bắc tới Nam. Họ Vũ/Võ ở Mộ Trạch (tỉnh Hải Dương), xây nhà thờ họ to lớn, uy nghi. Họ Phan phía Nam cũng có nhà thờ tổ mới xây ở Vinh Lộc… Đây là trung tâm qui tụ, đoàn kết của những dòng họ khác nhau để thờ phượng và bàn bạc kế họach xây dựng dòng họ văn hóa (tiếp đó, các dòng họ khác nhau, đoàn kết với nhau để thành khối đoàn kết chung)

Trong họ làm gì để tạo phúc đức? Phúc đức là do tổ tiên tích lủy lại, phần khác do chúng ta chuyên làm điều lành. Phúc là cuộc sống yên lành thanh thản, là có hậu vận tốt. Có phúc không hẳn là chỉ có tiền của,  giàu có, mà phải có hai chữ ‘bình an”
“Vàng tuy trời chẳng trao tay,
Bình an hai chữ xem tài mấy mươi
                                      (Gia huấn ca)
Được tồn tại với thời gian, được yên bình là nhà có phức Nhà có phúc là nhà có con nối dõi tông đường, tồn tại, tiếp nối bao đời về sau, nhà có công tích làm rạng danh gia đình dòng họ, ăn ở tốt đẹp, không làm mất lòng làng xóm, để tiếng thơm, không ai trách cứ. 
Ta không có quan niệm: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Nhà không có con trai, ta có hai cách để tạo phúc – cũng là tổng kết từ truyền thống dòng họ Việt Nam:
Một, có con nuôi để thờ phượng,
Hai, “mua hậu”, nộp cho xã ấp tiền của (thường là đất đai) để được thờ phượng (theo sách “An Nam phong tục sách của Mai Viên Đòan Triên) mà nay không còn nữa, hoặc nữa ta còn có cháu, con anh, con em. Có những chàng rể lại thờ phượng tổ tiên nhà vợ đàng hòang. Nhà hay quốc gia phải trường tồn với thời gian, đây cũng chính là tâm linh!

Phải có lòng nhân nghĩa, nhân ái – lòng thương nguời, có đức mới tạo phúc đươc. Lòng nhân ái, tình người, thể hiện trong những việc nhỏ, song lòng phải trong sáng và phải trải qua thời gian. Có được lòng nhân thì trời sẽ chứng giám, đây là niềm tin mạnh mẽ, vì người Việt Nam tin có trời, thăm thẵm nghìn trùng mà công bằng, minh bạch khi ra tay thưởng phạt. Người dân từ cá nhân, đến từng gia đình và cả dòng họ, đã hướng theo lòng nhân ái này mà tu dưỡng. Phải từ ông bà, cha mẹ để lại cho con cháu từ đất đai, nhà cửa, của cải cho đến sự học hành, cách đối xử.

Gia lễ là những cách thức, nề nếp, phép tắc định ra từ xa xưa  mà người trong họ phải theo. Quan (lễ kỷ niệm sự ra đời và trưởng thành của đứa trẻ), hôn, tang, tế là những lễ cơ bản trong gia đình, việc cưới hỏi, ma chay, giỗ chạp là không thể không làm.
(Sách “Thọ Mai gia lễ” do Hồ Sĩ Tân, đỗ Tiến sĩ năm 1721 đã sọan ra để thực hiện các lễ trong mỗi nhà và được các gia đình hưởng ứng, mặc dầu có nhiều điều hiện nay không còn thích hợp). 

Gia pháp, gia phong, gia huấn: Gia pháp là phép tắc (luật lệ) trong gia đình, bất thành văn. Gia phong là nếp, điều con cháu luôn phải gìn giữ, không làm trái, không làm điếm nhục gia phong, gia huấn là những điều đem ra dạy bảo trong gia đình. Nó thể hiện trong mỗi gia đình hoặc đậm nhạt khác nhau, song ở đâu, lúc nào cũng có (xem sách “Văn hóa gia đình Việt Nam” của GS Vũ Ngọc Khánh, NXB Văn Hóa Thông tin)
Truyền thống dòng họ bao gồm truyền thống văn hóa, truyền thống lao động  và truyền thống yêu nước, cả ba nội dung trên un đúc thành truyền thống dân tộc Việt Nam. Truyền thống lao động chủ yếu là nói về người nông dân, cày sâu cuốc bẩm, bạt núi phá rừng, canh tác trên ruộng đồng để tạo cuộc sống cho con cái. Họ thi gan cùng mưa nắng, gian khổ không cùng, tất cả đều xuất phát từ gia đình nông nghiệp. Là người yêu nước, bị ngọai xâm liên tục, ý chí chống ngọai xâm là thường trực trong con người Việt Nam. 

2. Nhận thức các vấn đề then chốt về gia phả: Ta chọn từ gia phả để chỉ chung tông phả, tộc phả, ngọc điệp, là lịch sử của một chi họ cụ thể, ghi theo kiểu riêng, đặc trưng. Ở ba miền: Bắc, Trung, Nam nơi nào, người dân cũng quan tâm đến gia phả, song phần lớn chỉ ghi trong ký ức và sử dụng lối truyền miệng để phổ biến, nên không liên tục, không đầy đủ và mất mát dần.
Có những chi họ, do hoàn cảnh mà phải đổi họ.
Qua công cuộc dựng phả, nghiên cứu và sưu tầm, hiện nay ta có được và nắm biết được nhiều bộ gia phả xưa (phần lớn vào thời Nguyễn), có những bộ nêu tỉ mỉ, hoàn chỉnh, không bị những quan điểm sai trái chi phối. 

Lịch sử Gia phả Việt Nam có từ khi nào?
Ta có thời kỳ huyền phả, thời kỳ phôi thai và thời kỳ xuất hiện. Theo sách “Lịch triều Hiến chương lọai chí” của Phan Huy Chú, nước ta bắt đầu có gia phả từ thời Lý. Năm Thuận Thiên thú 17, Lý Thái Tổ (Bính Dần 1026) có lịnh biên sọan Hòang triều ngọc điệp.
Trung Quốc có gia phả từ khi xuất hiện sách “Thế bản”  thời nhà Chu (1111 – 256 trước CN). Châu Âu, thế kỷ thứ V mới bắt đầu thời kỳ phôi thai của gia phả.
Như vậy gia phả Việt Nam có sau gia phả Trung Quốc là hơn 1000 nắm; có trước gia phả Châu Âu là 200 năm. Các nhà làm gia phả Việt Nam đang đặt vấn đề: trước thời Lý, gia phả Việt Nam đã có, nhứt là khi ta có thể mượn chữ Hán để ghi, song tại sao hiện nay ta không có bộ gia phả nào cụ thể để làm chứng?

Trong sách “Di sản Hán – Nôm Việt Nam thư mục đề yếu” của Viện Hán - Nôm Hà nội, có khỏang 300 bộ gia phả cổ. Trung tâm dựng 90 bộ, trong các dòng họ đang giữ (gia phả cổ) mà ta bắt gặp ngày càng nhiều. Trong đó, có 8 quyển, do Chương trình nghiên cứu gia phả Việt Nam, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản, đã dịch và lược khảo những bộ gia phả như: “Đinh tộc gia phả’. “Lê thị gia phả”, Vũ tộc thế hệ sự tích”, “Nguyễn gia phả ký”, Mạc thị gia phả”. Cộng với các tài liệu, sách vở nghiên cứu; ta vừa hiểu được lịch sử, vừa rút ra được những nội dung, cách dựng phả, những quan điểm đúng/sai, bố cục bộ phả. May mắn, chúng ta đã xây dựng được bước đi đúng và tạo ra các cách thức, mẫu hình thích hợp để dựng được bộ phả hoàn chỉnh mà các dòng họ chấp nhận và đúng cho sự nghiệp và quá trình dựng phả ngày hôm nay.

-          Tên bộ gia phả: phải lấy tên theo địa lý hành chánh hiện nay, ghi trước hết thí dụ: GIA PHẢ HỌ VÕ, ẤP BÀ GIẢ, XÃ PHƯỚC VĨNH AN, HUYÊN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
-          Lời tựa: Nêu lý do dựng gia phả, quá trình, kết quả, đã cùng làm với ai, ưu khuyết, đề nghị con cháu bổ khuyết và ký tên người dựng trong họ.
-          Phả ký: Là lịch sử phát tích dòng hộ với ông bà tổ sinh sống tại tổ quán này (địa chí ấp), trải qua từng thế hệ (đời) cho đến ngày nay. Đúc kết đặc điểm, tính chất dòng họ, những ưu điểm và đề xuất phương hướng xây dụng dòng họ văn hóa. Viết phần nầy là khó, phải sử dụng tài liệu, tư liệu sử và kiến thức sẵn có của chúng ta.
-          Tộc hệ, Phả hệ: Đây là cách viết sử theo cách riêng cho gia phả, ghi theo từng chi, chi trưởng ghi trước, chi thứ ghi sau, con cả (thứ hai) ghi trước, con thứ ghi sau. Trước tiên, ghi trong khung tên họ cả chồng và vợ (nếu có), ghi năm sanh, năm mất, ghi ngày giỗ, tất cả theo âm lịch. Ghi kỷ sự, hành trạng, công tích từng người. Cuối cùng ghi thứ tự các con.
-          Phả đồ: Có nhiều cách vẽ phả đồ, có thể theo cách sơ đồ tổ chức, vòng tròng đồng tâm, cây gia phả, theo mẫu kiểu vi tính…
-          Ngọai phả: Ghi việc thờ cúng tổ tiên, giỗ tộc, giỗ chạp, văn khấn trong họ, nhà thờ tộc, hội đồng gia tộc nếu có, mô tả các khu mộ.
-          Phụ khảo: Ghi lịch sử thôn ấp, sinh họat địa phương, đình, chùa, trường học, chợ, bến đò. Ghi tiểu sử những người có công tích, mẹ Việt Nam anh hùng. Có khi ghi sơ lược gia phả bà cố ngoại, bà ngoại, hoặc mẹ vào phần nầy.
Vai trò Hán – Nôm trong việc dựng phả: Có dòng họ có gia phả cổ ta phải dịch. Cần sở học về Hán - Nôm cổ, có khi phải dịch những câu liễn, các văn tự khác bằng chữ Hán.

Cách ghi kỷ sự, hành trạng, công tích:  Môn tiểu sử học hướng dẫn cách ghi lai lịch, lý lịch một người: Họ tên đang dùng, họ tên khai sanh, các bí danh, tên húy, tên hiệu. Ngày tháng năm sinh, tổ quán, trú quán; dân tộc, tôn giáo, thành phần gia đình, thành phần và nghề nghiệp bản thân, trình độ văn hóa, ngọai ngữ; ngày và nơi tham gia các tổ chức, ngày vào đảng, chức vụ, nhiệm vụ trải qua, hoàn cảnh gia đình.
Quan hệ xã hội: học trường nào, trình độ tốt nghiệp, quan hệ với ai, đời sống, nếp sống, lịch sử bản thân tlúc nhỏ, lớn lên, lúc tham gia cách mạng, năng lực sở trường…

Cách ghi địa chí thôn ấp: Mô tả về địa lý, lịch sử,  các dòng họ sống chung, đình chùa, chợ búa trong ấp, các lọai bản đồ thôn ấp (thường phải tự vẽ).

Cần nắm vững, nắm chắc về qua trình Nam tiên của các đợt di dân từ Trung, Bắc vào, ở đâu vào, tên, tính chất đợt di dân, năm nào, đợt nào, vào đâu để có thể liên hệ với dòng họ ta đang dựng phả.

Chúng ta phải có kỷ năng và bản năng dựng phả. Bản năng là cái vốn có, từ trong chiều sâu của mỗi thành viên, nay ta phát hiện, nhận ra và thổi bùng để nó cháy lên thành ngọn lửa say mê của sự nghiệp dựng phả trong chúng ta. Sự nghiệp nầy sẽ tác động, góp một phần làm ấm lên mỗi họ tộc, bởi dòng họ có phả là dòng họ đã thay đổi về chất rồi!

Sách tham khảo:
-          Văn hóa Huế xưa của Lê Nguyễn Lưu,
-          Văn hóa gia đình Việt Nam của GS Vũ Ngọc Khánh.
-          Các sách thuộc Chương trình nghiên cứu gia phả Việt Nam do GS Phan Huy Lê chủ nhiệm.
-          90 quyển gia phả do Trung tâm gia phả TP HCM dựng
-          Các bộ gia phả Hán – Nôm do Trung tâm địch.
  VÕ NGỌC AN
 
ĐỂ GIA PHẢ TRỞ THÀNH NHÂN TỐ TÍCH CỰC TRONG VIỆC 
PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM

Gia phả là lịch sử của dòng họ. Mỗi dòng họ có gia phả hoàn chỉnh, sẽ phản ánh tòan diện, thấu đáo và sâu sắc đến  nội dung vốn có của dòng họ, tức lịch sử của nhân dân đã được phản ánh. Ta cho rằng cá nhân làm nên lịch sử và quần chúng nhân dân làm  nên lịch sử, mà khối người sau nầy, tức quần chúng nhân dân là chủ yếu, to lớn. Từng gia đình cùng huyết thống, tạo nên dòng họ. Tất cả các dòng họ tạo thành một thực thể là đồng bào. Cả khối đồng bào cùng sống trên dảy đất Việt Nam là dân tộc Việt Nam. Lịch sử Việt Nam, trước hết và trên hết, là lịch sử của đồng bào, của dân tộc Việt Nam.

Gia phả ghi những gi?
Về phần “tái sản xuất ra con người”, và “tái sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống con người”, với tình cảm, ý thức, nhận thức của họ, từ ông bà thỉ tổ đến hậu duệ là đã trải qua mấy chục đời, đó là cả một bộ bách khoa về con người.
Gia phả - giả định là nó đã phát triên hoàn chỉnh, sẽ ghi chép đầy đủ về con người của một đất nước cụ thể. Người chết và người sống, trong họ có bao nhiêu người, tên họ, ngày sanh, ngày mất, nơi chôn cất (người chết); hình thái, vóc dáng, công tích, tính chất từng người. Họ đã tổ chức duy trì, phát huy cuộc sống bằng lao động, sản xuất trên mảnh đất của họ. Mặt khác, họ là khối người thông minh, sáng tạo, họ tư duy những vấn đề  thiêng liêng, bình thường và siêu đẳng, họ có hoặc không tôn giáo, họ cũng hứng thú trong sáng tạo nghệ thuật, từ các hình thức để thờ phụng, đến các loại thi ca, nhạc, họa. Họ cũng là lực lượng chiến đấu chủ yếu để chống kẻ thù, bảo vệ đất nước, cùng với việc chiến đấu chống chọi với thiên nhiên. Truyền thống lao động, truyền thống yêu nước và truyền thống văn hóa là ba cái tích lũy từ bao đời trong các dòng họ Việt Nam. 

Dòng họ không có phả, gọi là dòng họ khuyết phả. Khuyết phả khác với có phả, trước hết họ không thể hình dung được, hoặc không thể phát huy được đúng truyền thống bản năng có từ dòng họ mình; hoặc có thụ hưởng,  thừa kế về vật chất như đất đai, nhà cửa, hoặc về tinh thần như tài năng, khiếu kinh doanh, dạy học, âm nhạc…thì cái được thụ hưởng đó, nguyên gốc do đâu và từ đâu, họ không biết, có khi, nhất là về mặt tinh thần họ lại còn cho đó là do thiên tính.. 

Về tâm lý, người có phả sẽ tự tin, đường hoàng sống trong dòng họ và khi tiếp xúc với xã hội, ngoài phần bản năng, năng lực cá nhân, anh ta còn thấy cả tổ tiên, dòng họ của mình bên cạnh nhứt là trong hòan cảnh gian nan thử thách cao. Từ đó, anh ta cũng sẽ nhìn sang các dòng họ khác: nếu là dòng họ có phả, sự trân trọng, đáng kính sẽ cao hơn! Con người có gốc sẽ khác xa với con người mất gốc, hoặc chưa biết nguồn gốc.
Về mặt xã hội, dòng họ sinh sống, phát triển trên một địa bàn nhứt định, đều có sự quan hệ tiếp giao tỏa rộng ra. Các dòng họ khác, do sự định hình từ bao đời, như là một sự đương nhiên vốn có, đã tạo thành mối quan hệ quen biết, thân thuộc hoặc đã kết thành suôi gia. Nhưng sự quen biết và liên kết ấy, nếu dòng họ có bộ gia phả, thông qua chữ viết, thì sự nhận biết đó sẽ sâu sắc, tòan diện, mau chóng và rộng rãi hơn nhiều. Ở đây chữ viết là phương tiện thông tin mẫu mực. (Trước đó không có chữ viết, họ nhân biết nhau bằng ký ức, bộ nhớ và truyền khẩu và như thế thì  rất dể suy suyển) Bộ phả, vừa ghi chép về dòng họ, vừa là nơi tích lủy, chứa đựng tri thức với tư cách là một bộ sử dùng để nhận biết dòng họ. Dựa vào sự phát triển dòng họ để tự hào, tự tin vì đây thuộc qui luật phát triển con người, hữu thỉ vô chung, tiếp nối mãi mãi… 

Như đã nêu, gia phả là lịch sử của chính bản thân  nhân dân, mặt khác, nó đã nói rõ tổ qúan, về diện tích tự nhiên, lịch sử vùng đất, các dòng họ cùng sốmg chung, nhà ở, nhà thờ tổ, đình chùa, chợ búa… của một xóm ấp. Đây chính là địa chí ấp, tỉ mỉ, chi tiết. Lịch sử sẽ quan tâm đến công tích nhân vật, thí dụ Gia phả  họ Nguyễn – Huỳnh ở ấp Dinh, xã Khánh Hậu, thị xã Tân An, tỉnh Long An, qua “Lời Ngỏ”: “Kiến họ Huỳnh là một trong những họ tộc lớn ở vùng đất phương Nam, hiện diện rất lâu đời, ước tính khoảng đầu thế kỷ thứ 17, mà hiện nay mộ phần ông Nguyễn Công Lượng – (là thân sinh ông Nguyễn Hùynh Đức, là người làm quan dưới triều Lê) tọa lạc tại ấp Dinh, xã Khánh Hậu…”. Bộ gia phả nầy đươc thực hiện với tính  khoa học, khám phá ra nhiều điều mới la qua các tư liệu về văn tế, chiếu chỉ, sắc phong bằng chữ Nho.
Gia phả họ Phan ở ấp Tiền, xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi ghi rõ lai lịch ông Phan Văn Khải. Gia phả họ Trương ở ấp  Giồng Dứa, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An cũng ghi rõ lai lịch, từ đời ông sơ, ông cố của ông Trương Tấn Sang… Trong 100 bộ gia phả do Trung tâm nghiên cứu và thực hành gia phả Tp Hồ chí Minh, từ năm 1992 đến nay, mô tả dòng họ nào từ  “miền ngòai” vào đâu, ở đâu trước không có bộ nào mô tả việc các vị tổ đời 1, từ thế kỷ  17 - 18 – 19, khi khai hoang lập xóm ấp mà lại đụng độ với người Khmer, tức không có hiện tượng giành đất, xâm chiếm. 

Một mục tiêu lớn của việc dựng phả là việc truy tìm dòng họ, nhân họ, tức quá trình “vấn tổ tìm tông”, kết liên các chi họ (cùng họ) với nhau, để chứng tỏ một họ cụ thể nào cũng sẽ có khả năng từ một ông thỉ tổ xa xưa, song trong thực tế, đây là việc làm khó. Có thể dùng ADN để nhìn nhận, song để xác định quan hệ trên dưới, gần xa thì vô phưong! Có trường hợp việc truy tìm có kết quả, như chi họ Nguyễn ở Long An, qua “phương pháp gia phả học”, đã tổ chức nhận họ đàng hòang. 

Gia phả ghi tất cả những vấn đề thuôc nội dung tư tưởng của dòng họ, quan niệm về phúc, làm sao để có phúc, về nề nêp và tập tục, những quan niệm cơ bản đúng đắn của những dòng họ làm cơ sở, từ đó tạo ra những qui phạm, những nề nếp tập tục, củng cố dần, làm sáng thêm văn hóa gia đình - dòng họ hôm nay, cộng vào đó luật pháp lại bảo vệ.
Trong các bộ gia phả đã dựng, quan sát quá trình phát triển các dòng họ từ xưa, chúng ta thấy càng rõ những vấn đề then chốt cho chính ngày hôm nay, gia lểgia phápgia phonggia đạo … Phải xuất phát từ đây để tiến lên bàn và thực hiện các vấn đề giáo dục gia đình hiện nay. Các bộ gia phả đều ghi nhận việc khuyến học hiên nay: con cháu đỗ đạt, thành đạt ngày càng nhiều; người ta quan tâm đến việc học chữ và học nghĩa, có chương trình khuyến học, khuyến nghiệp và khuyến tài trong các bộ phả. Loại bỏ những tư tưởng hạn chế của Nho giáo, các dòng họ xưa đã vận dụng sách Minh Đạo gia huấn, có nhiều nội dung về giáo dục gia đình đáng quí:
      Phàm nhân bất học (Phàm người chẳng chịu học)
      Minh như dạ hành (Mờ tối như đi đêm)
Ngày nay ta dùng lại “Tiên học lễ, hậu học văn” là đúng. Sách nầy của Trần Minh Đạo đã ghi:
      Huấn đạo chi sơ (Bước đầu dạy bảo)
      Tiên thủ lễ pháp (Trước hết giữ phép) 

Qua các bộ phả, nhất là trong phần phả ký, truyền thống quý báu, tốt đẹp của dòng họ mà ta gọi là “tính ưu việt của dòng họ”, là phần giáo dục trong gia đình, nó đã un đúc từ nghìn xưa, là nền tảng của sự phát triển. Đúc kết tiêu chuẩn giáo dục gia đình nói chung qua gia phả, là rất khó. Tiêu chuẩn đó hiện nay chưa có, song gia đình nào cũng nói đựơc cái cơ bản của sự giáo dục nầy. Cũng từ sách Minh Đạo gia huấn, đã nêu một số nguyên tắc, người ta thuộc hoặc không, nhưng trong cách sống đều thể hiện đầy đủ: làm cha phải có lòng thương, làm con thì phải có hiếu, làm anh thì phải yêu em, làm em thì phải kính anh (cung), làm chồng thì phải vui hòa, làm vợ thì phải nhu thuận. Đó là nguyên tắc sông của gia đình, hiểu theo cách bây giờ cũng không thoát những chuẩn mực cơ bản đo. 

Trong các bộ gia phả, Phật giáo, Thiên chúa giáo, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và các tín ngưỡng khác, khi đề cập đến dòng họ, môn gia phả không bỏ qua một lọai tín ngưởng nào. GS Vũ Ngọc Khánh đã nêu đại ý: Nhận thấy các tôn giáo, bằng cách của mình đã tác động trực tiếp, tích cực đến việc giáo dục gia đình – nhất là giáo dục đạo đức Phật giáo tuy không có những phương châm tu thân, tề gia , trị quốc như đạo Nho. Chữ hiếu hay nói về công đức của cha mẹ, đạo Phật nói cụ thể và nhiều hơn Nho giáo. “Lạy cha ba lạy một quì , Lạy mẹ bốn lạy con đi lấy chồng”. Đó là ca dao xuất phát từ Phật giáo , cách lạy đó là cách lạy của Phật. Vị vua đi tu Phật Trần Nhân Tông, qua sách “ Thập Thiện” đã dạy ; “Không sát sinh, không trộm cắp. Không tà dâm, Không nói dối, Không nói lới ly gián , Không nói lời ác, Không nói lời tạp uế , Không tham lam , Không giận dữ , Không hà tiện. Với bài phú “Cư Bần Lạc Đạo”, cũng của Trần Nhân Tông: “Bụt ở trong nhà , chẳng phải tìm xa”. Phật giáo cho đi tu là để tạo phúc: “Đã xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người”.

Đạo Thiên chúa lúc đầu vào Việt Nam có những điều rao giảng không phù hợp với văn hóa dân tộc Việt Nam như cấm không thờ phụng tổ tiên, không tin thần Phật, cho tổ tiên là có tội ….; về sau, có cái đã chấn chỉnh. Trái lại Thiên Chúa rất coi trọng gia đình. Kinh Thánh đã nói nhiều đến “ Sự thánh thiện của hôn nhân”, ca ngợi “ Người phụ nữ có đức hạnh”. “Ai bỏ rơi cha mình là phạm thượng”, sách Mat thêu “ chớ ngoại tình , đừng li dị” .
Ở Phát Diệm, có những bài thơ vè về cụ Sáu, tức linh mục Trần Lục, nêu chi tiết, cụ thể để dạy đàn bà con gái , việc tiếp khách, việc ăn làm, việc đi, việc đứng; cách ngồi, cách ăn cơm. Linh mục nầy là người đã thiết kế xây nhà thờ Đá ở Phát Diệm 1891, một nhà thờ độc đáo, một kỳ công của kiến trúc nhà thờ Việt Nam (Nhà thờ Ba Chuông ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay, cũng theo phong cách, kiểu dáng cổ ấy )
Qua một số tín ngưỡng khác cho thấy người dân tin có Trời, tin có Đạo Thánh, tín ngưỡng về bà Mẹ (Mẫu Cửu Trùng, Mẫu Thượng Ngàn, Bà Liễu Hạnh ). Trời, Thánh, Mẹ… đều có những lý luận, phương châm, sách dạy về tu dưỡng, làm lành lánh dữ một cách gần gũi, thuyết phục, không cao xa . 

Dòng họ là những người sáng tạo ra ca dao, chuyện cổ tích, đồng thời cũng là những người thụ hưởng chúng .
Những câu như “ Con người có tổ có tông. Như cây có cội như sông có nguồn”, thường xuất hiện trong một bộ gia phả hoặc trong lời tựa hoặc trong phả ký. Hoặc trong những câu trực tiếp giáo dục gia đình, ứng xử, khẳng định giá trị dòng họ. Con cháu chịu sự giáo dục của ông bà, cha mẹ và cả tổ tiên. Dòng họ Việt Nam chú ý đến giống nòi: “Lấy vợ xem tông, Lấy chồng xem họ ”, qua cưới hỏi , họ có sự lựa chọn. Các dòng họ sống có nghĩa tình , từ trong họ đến ngoài họ .., Các anh em gắn bó nhau từ trong một gia đình , “ như thể tay chân”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng , Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Trong sáng tác và thụ hưởng, văn học dân gian khi nói về đạo đức tình cảm, kinh nghiệm ứng xử, kiến thức quê hương, kiến thức thường thức, những bộ gia phả sâu sắc cũng không quên đề cập, đưa vào khi dựng gia phả họ Trương ở Gò Công, có những người chuyên sáng tác những bài ca tài tử, bài vè … 

Chúng ta cũng có những tác phẩm thành văn được ghi lại trong những bộ gia phả cổ.
“ Mộ Trạch Vũ Tộc Thế Hệ Sư Tích ” do ông Võ Văn Sổ dịch, là bộ gia phả được ông Vũ Phương Lan (cháu đời 15, chi 3 họ Vũ ở Mộ Trạch), Tiến sĩ đời Lê Cảnh Hưng (1740 – 1786 ) dựng, một mặt nêu rõ các nhân vật Trạng nguyên, Tiến sĩ làm nên quan tướng các triều, đồng thời phải nói đây là gia phả  của văn học, của thi thơ Việt Nam., là một  dòng họ “Nhân hậu và Trí tuệ” (chữ do Vũ Khiêu).
Riêng với ông Hoàng Giáp (1502) Tống hiên Vũ Cán, các bài thơ và ký của ông về cảnh quang và nhân vật Mộ Trạch được coi là kho tàng quí hiếm.
Ở mấy trang đầu, phần phả ký cũng đã giới thiệu câu tiễn do Tham nghị Vũ Đăng Hiển làm:
“Bế thời tận tống thiên lai khứ
Khai nhựt trùng nghinh Bá Phước lai
Nhứt đoàn vân lập trung nghi thạnh
Vạn cổ hương danh miếu mạo quang.”
Ngày khai nghinh Bá Phước
Trực Bế tống thiên lai
Một đám mây lành che miếu võ
Muôn năm hương khói tỏa vung nghi
                                                    (do Võ Văn Sổ dịch)

Cũng trong bộ gia phả Mộ Trạch nói trên, những chuyện vui dân gian về “Trạng vật”, “Trạng cờ” cũng được nêu lên một cách sinh động. Kỷ sự của mỗi vị Trạng nguyên, Tiến sĩ phần cuối lại có những bài thơ của Tô Quận Công tức Trạng nguyên Lê Quang Bí (cháu ngoại của họ Vũ) hoặc của Thọ Lãnh Bá là những bài thơ Đường luật hoặc tứ tuyệt sắc sảo .
Như thế, quả là ngành gia phả đã có trong truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam.
Ở Mỹ, việc nghiên cứu về gia tộc, dòng họ thuộc về  bộ môn gia phả học. Một số trường đại học lại xếp gia tộc, dòng họ vào xã hội sử.
Ở Trung Quốc và Á Động nói chung, ngoài khía cạnh sử học, người ta còn chú ý đến khía cạnh đạo đức tâm lý.
Dựng gia phả là nói về con người – những con người cùng một huyết thống, cho nên các bộ gia phả dựng thành công, nói chung là một tác phẩm văn học – lịch sử .
Sưu tập đầy đủ các bộ gia phả có từ trong lịch sử, cộng với các bộ gia phả dựng mới ngày càng nhiều thêm, ta sẽ có một tài sản văn hóa phi vật thể to lớn, dày đặc những con người, sự kiện tinh thần và vật chất của dân tộc. Lúc ấy ta cũng có một Viện Nghiên cứu Gia phả Việt Nam, ta cũng có những trường cao đẳng, đại học với những khoa giảng về gia phả, về dòng họ và cũng như vậy trong nhân dân, họ tộc nào cũng có người thông thạo cách dựng gia phả cho mình.
Về ngành văn hóa, xem đây là một sự nghiệp, có những hướng dẫn cách xây dựng một bộ gia phả cho khắp cùng xã ấp thì là một điều tốt đẹp. Song hiện nay, chúng ta chỉ mới bắt đầu từ một “ Trung tâm nghiên cứu và thực hành gia phả Tp.Hồ Chí Minh ” (với mục tiêu phục hồi ngành gia phả Việt Nam, với phương châm “Nghiên cứu gia phả là khoa học, thực hành gia phả là thiêng liêng”) – thì quả là sức lay động còn yếu, độ thấm còn mỏng. hiệu quả còn ít./.

                                                 Ngày 5 tháng 3 năm 2009 VÕ NGỌC AN
Theo http://giaphatphcm.com